Thứ Bảy, 8 tháng 10, 2016

“Ngân sách xử lý nợ xấu đâu phải cho không, biếu không”

Đã đến lúc nợ xấu phải được đặt ra như một vấn đề cấp bách, để tìm cách xử lý nhanh...

Sau 5 năm, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục xây dựng đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, giai đoạn hai. Theo TS. Trương Văn Phước, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, lõi của tái cơ cấu ngân hàng vẫn là xử lý cho được nợ xấu.

Ông Phước cho rằng, cần xem xét tạo các nguồn lực để thúc đẩy nhanh quá trình và kết quả, còn việc xem nợ xấu do ngân hàng gây ra và phải tự xử lý là một quan điểm nông nổi.

Nhu cầu cấp bách

Thưa ông, sau 5 năm, thực tế nợ xấu vẫn gây quan ngại lớn và chủ yếu vẫn là các ngân hàng thương mại tự xử lý. Để đẩy nhanh hơn, triệt để hơn, theo ông có nên tìm kiếm giải pháp tạo những nguồn lực khác nữa không?

Thời gian qua đã có nhiều cách tiếp cận rồi. Vay nước ngoài về thì không được, vì nhiều ràng buộc. Dùng ngân sách thì không có sự đồng thuận của xã hội.

Nhưng, yêu cầu đặt ra là phải xử lý nợ xấu càng nhanh càng tốt. Cứ để lâu dài thì sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu kém đi, vốn và chi phí vốn của doanh nghiệp vẫn rất cao, đặc biệt là trong một nền kinh tế mà tín dụng nội địa vẫn là nguồn đóng góp lớn, như là dòng máu chủ đạo dẫn vào cơ thể.

Vì thế này thế kia mà chúng ta vẫn chưa xử lý được một cách tương đối triệt để thì cơ thể đó dù vẫn sống, nhưng xanh xao, gầy yếu. Cái này thì ai cũng biết rồi.

Và đến nay vẫn có quan điểm, nợ xấu do ngân hàng gây ra thì các ngân hàng tự chịu. Tôi cho quan điểm đó là nông nổi. Họ vẫn cứ tự xử lý bao năm nay. Nếu cứ chấp nhận tình trạng này, cứ để họ tự xử lý. Thiệt hại là cổ đông và nhân viên ngân hàng sụt giảm cổ tức, lương bổng. Nhưng thiệt hại lớn hàng trăm lần là đối với nền kinh tế.

Vậy theo quan điểm của ông, xử lý nợ xấu là trách nhiệm chung của nền kinh tế?

Chúng ta thấy mấy chục năm đổi mới của nền kinh tế Việt Nam có sự đóng góp lớn của ngành ngân hàng chứ, là kênh dẫn vốn chủ đạo cho nền kinh tế. Mà trước đây chúng ta đâu có nhiều vốn ODA và FDI đâu.

Hàng chục năm trước, cũng vẫn những chiếc xe bò cọc cạch ấy đã chở bao nhiêu vật liệu để xây dựng cái nhà chúng ta. Không nên phụ cái xe bò cọc cạch ấy. Nói đi phải nói lại, phải nhìn nhận cái đó cho công tâm.

Nay cái xe bò đó bị rơi xuống hố, do người điều khiển nó, nhưng không vì thế mà quay lưng bỏ mặc nó sau khi đã và đang chuyên chở bao nhiêu nguồn lực cho chúng ta.

Bây giờ phải sử dụng một nguồn lực tổng hợp, rồi vẫn phải bàn đi bàn lại, đặt lên đặt xuống vấn đề này. Dù bàn mãi, đặt lên đặt xuống mãi thì nhu cầu cấp bách vẫn là phải xử lý nhanh và tương đối triệt để nợ xấu, trong những điều kiện có thể được.

Theo tôi, có lẽ cần xem xét lại nhận thức đúng đắn, nghiêm túc về một câu chuyện rất lớn của đất nước. Đã đến lúc phải được đặt ra như một vấn đề cấp bách, phải xử lý nhanh.

Những điều kiện có thể được, cụ thể là như thế nào?

Trước hết chúng ta cân đối xem, một bên là khối lượng nợ xấu, một bên là các tài sản đảm bảo cho nợ xấu. Đâu phải nợ xấu là một khối lượng tiền đã mất. Phải làm rõ là bên cạnh nợ xấu thì các tài sản đảm bảo chưa hẳn là xấu. Một khoản vay 10 tỷ, tài sản đảm bảo là ngôi nhà. 10 tỷ đó là nợ xấu, nhưng ngôi nhà đó có gì xấu.

Vậy thì câu chuyện đặt ra là gì? Bây giờ tính toán cân đối lại giữa tổng nợ xấu với giá trị tài sản đảm bảo cho nó thực tế như thế nào, tình trạng pháp lý như thế nào. Bước đầu là tạo điều kiện để làm sao những tài sản đảm bảo đó có thể lưu động được, có thể bán được. Đó là xem xét điều chỉnh hệ thống pháp luật.

Thứ nữa, nếu như nó đã đầy đủ điều kiện rồi, thực tế trong đó có nhiều tài sản đảm bảo có đủ điều kiện rồi, nhưng vẫn không bán được. Thì đó là do thị trường, sức cầu và giá cả, có thêm yếu tố nữa là dòng vốn đâu trong nền kinh tế này.

Nói tóm lại, trước hết chúng ta xử lý các vấn đề kỹ thuật của câu chuyện tương quan nợ xấu với tài sản đảm bảo cho nó. Muốn làm cái này trước hết là vai trò của hệ thống pháp luật, phải hỗ trợ cho các bên để hoàn chỉnh tính pháp lý.

Rồi chúng ta phải tạo điều kiện cho người mua, người bán thông qua thị trường mua bán nợ, mua bán các tài sản đảm bảo sao cho thuận lợi. Ví dụ như có giải pháp kích thích cho thị trường này chẳng hạn như không đánh thuế. Và để kích thích thị trường này thì cần phải có tiền.

Bốn nguồn lực khả thi

Phải có tiền, nhưng ngoài các ngân hàng tự trích lập dự phòng và xử lý, mấy năm nay vẫn chưa có điểm gợi mở về nguồn lực mới, thưa ông.

Chúng ta có thể xem xét ở bốn kênh tạo nguồn lực tổng hợp, hỗ trợ để xử lý nhanh và tương đối triệt để nợ xấu.

Đó là tín dụng từ ngân sách, tạm ứng ra một khoản vốn, điều mà bấy lâu nay vẫn có định kiến nhầm lẫn rằng ngân sách là cho không, biếu không.

Nguồn lực thứ hai chúng ta đều biết là Ngân hàng Nhà nước có thể điều tiết cung tiền thông qua các công cụ, như là tái cấp vốn. Ngay cái từ “tái cấp vốn” cũng đã nhạy cảm. Thực ra cấp nhưng không phải là cấp. Nó bị định kiến là khi Ngân hàng Nhà nước cho vay một tổ chức tín dụng, gọi là tái cấp vốn, làm người ta nhầm tưởng cũng là cấp không. Thực ra đây là một khoản tín dụng dựa trên các tài sản đảm bảo. Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể sử dụng một mức độ nhất định nguồn này để sao cho không tạo ra áp lực đối với lạm phát.

Nguồn lực thứ ba là trong dân. Có cách nào đó để huy động vốn trong dân để sử dụng vào việc cùng chữa căn bệnh của quốc gia là nợ xấu. Người dân cũng được thừa hưởng thông qua sự huy động này.

Hay chúng ta tạo điều kiện cho các nguồn lực bên ngoài vào, phát hành giấy tờ có giá, lập định chế quỹ để huy động nguồn lực để xử lý nợ xấu.

Đó là bốn cách tiếp cận truyền thống, tương đối khả thi, không lệch sang một cách nào, mà theo những liều lượng hợp lý và tính khả thi của nó. Tất cả để nhằm vào yêu cầu khẩn trương xử lý nợ xấu, vì càng để lâu thì càng bất lợi cho nền kinh tế.

Đây không phải là vấn đề riêng của hệ thống ngân hàng, bởi nền kinh tế này tín dụng nội địa vẫn là chủ yếu, khoảng trên 110% GDP.

Trong bốn hướng trên, sử dụng ngân sách Nhà nước tham gia xử lý nợ xấu có khả thi không, khi mà nó luôn có phản ứng không đồng thuận trong xã hội?

Khái niệm tham gia là gì? Hình như gần đây nó được hiểu một cách nhầm lẫn là dùng ngân sách để cho không các ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp, các cá nhân vay vốn. Theo ý kiến riêng tôi, nếu hiểu như vậy thì sai lầm.

Sử dụng ngân sách ở đây như là một loại tín dụng nhà nước. Nhà nước cho vay. Đã cho vay thì phải thu hồi, không phải cho vay bằng bất cứ giá nào, vẫn phải lượng định những rủi ro, phải tính toán cho vay như thế nào để không bị tổn thất.

Nếu ngân sách cho các ngân hàng thương mại vay để xử lý nợ xấu, đương nhiên phải tính toán tài sản đảm bảo là cái gì. Tôi nhấn mạnh khái niệm tín dụng Nhà nước khi ta nói sử dụng ngân sách để xử lý nợ xấu, có những điều kiện đảm bảo, dù không ai khẳng định là không có rủi ro.

Nhưng ngân sách là tiền thuế của dân, nếu dùng thì đổi lại sẽ được gì?

Khi nói đến ngân sách luôn luôn chúng ta bị ấn tượng rằng ngân sách là cấp phát, cứ như mặc định là cho không. Cho nên khi nói dùng ngân sách để xử lý nợ xấu thì làm cho người ta có định kiến là dùng để xóa nợ cho các ngân hàng thương mại, mà thực ra là cho các doanh nghiệp, cá nhân vay có nợ xấu.

Vậy nên mới sinh ra câu chuyện ngân sách từ đâu, từ đóng thuế, người dân đóng thuế. Rồi góc nhìn người nghèo đóng thuế để lấy trợ cấp cho người giàu. Theo tôi, đây là một cách tiếp cận phiến diện và sai lầm.

Trước những định kiến đó, những năm qua và cho đến nay chúng ta vẫn chủ yếu để cho các tổ chức tín dụng tự xử lý nợ xấu. Trong 5 năm nay họ vẫn tự xử lý đó thôi. Không tổ chức tín dụng nào lăn đùng ra chết cả, còn nếu có thì lại là câu chuyện khác… Nhưng hệ quả họ tự xử lý nợ xấu là lợi nhuận thấp xuống, vì phải trích lập dự phòng rủi ro nhiều, ngân sách thu theo đó ít đi.

Tôi lấy ví dụ, trước đây lợi nhuận một ngân hàng bình thường cỡ 1.000 tỷ thì đóng thuế 250 tỷ, bây giờ lợi nhuận chỉ còn 100 tỷ thì chỉ đóng có 25 tỷ mà thôi. Nên chúng ta tưởng rằng để cho các tổ chức tín dụng tự xử lý nợ xấu thì không mất gì, nhưng ngân sách mất rất nhiều.

Trước đây thông thường toàn hệ thống ngân hàng lãi khoảng 120.000 tỷ, đến nay chỉ còn khoảng 30.000 tỷ, mất 90.000 tỷ, tức ngân sách mất thu khoảng 22.500 tỷ.

Còn nếu sử dụng ngân sách, nói tới nói lui thì sử dụng ngân sách ở đây là tín dụng Nhà nước, không phải cho không biếu không, mà có vai trò như bắc một cây cầu trên một dòng sông, không có nó thì không thể từ bờ nợ xấu bên này qua bờ nợ tốt bên kia nhanh được.

Và với quan hệ lãi suất, nợ xấu giảm thì tạo điều kiện để lãi suất giảm, chi phí vay vốn giảm để tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp vay vốn, cho nền kinh tế. Điều chúng ta thấy, trong bối cảnh lạm phát thấp mà chi phí vay vốn của doanh nghiệp vẫn rất cao như vậy, một nguyên do lớn nằm ở nợ xấu.

Tính toán mức độ có thể được

Trong trường hợp sử dụng ngân sách, không phải là cho không biếu không, thì cách thức triển khai thế nào, thưa ông?

Dùng nguồn ngân sách đó cho tổ chức tín dụng vay trong 5-10 năm với một mức lãi suất nào đó. Sau 5-10 năm, các tổ chức tín dụng bán được các tài sản đảm bảo để trả lại.

Hoặc chúng ta có thể phát hành một loại trái phiếu đặc biệt gọi là trái phiếu xử lý nợ xấu, mọi tổ chức cá nhân đều có thể tham gia mua. Đương nhiên ở đây liên quan đến một vấn đề hệ trọng, là tác động đến cầu tiền - cung tiền như thế nào để không gây ra những ảnh hưởng lớn tới ổn định tiền tệ vĩ mô.

Lãi suất trái phiếu cũng bằng lãi suất cho vay lại các tổ chức tín dụng, ngân sách không mất gì cả. Nhưng không phải là ngân sách không được gì, vì nếu xử lý được nợ xấu, như trên, ngân hàng lãi hơn sẽ đóng góp ngân sách nhiều hơn.

Như ông đề cập ở trên, giả sử dùng một phần ngân sách hay huy động nguồn lực trong dân, thì ràng buộc lớn là vấn đề trần nợ công…

Ở đây cần tính toán các phương án, mức độ có thể được. Cũng cần xem vốn huy động để xử lý nợ xấu có là nợ công hay không. Nếu làm thì hẳn sẽ có những đề án, tính toán liều lượng cụ thể. Chứ không lẽ đụng vào cái gì cũng không được, rồi ngồi im chờ chết sao.

Theo Minh Đức

VnEconomy

Đọc tiếp »

Nữ nhân viên nhà băng chiếm đoạt gần 50 tỷ của khách

Lợi dụng sự tin tưởng của khách hàng, nữ cán bộ ngân hàng Eximbank ở Nghệ An nhiều lần lập hồ sơ khống để rút hàng chục tỷ đồng.

Ngày 26/9, Phòng Cảnh sát kinh tế Công an Nghệ An xác nhận, cơ quan điều tra đã khởi tố Nguyễn Thị Lam (29 tuổi, trú ở huyện Đô Lương, Nghệ An) về hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Theo kết quả điều tra ban đầu, Lam vốn là cán bộ kiểm ngân của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) chi nhánh huyện Đô Lương. Nữ nhân viên này có quan hệ mật thiết với nhiều khách gửi tiền tiết kiệm. Mỗi lần có người gửi, Lam là người trực tiếp làm hồ sơ rồi gửi vào sổ tiết kiệm hoặc cầm tiền của khách hàng để làm thủ tục gửi sau.

Sau một thời gian, tài khoản của Lam và người thân có biểu hiện bất minh, số tiền tăng lên từng ngày. Cũng trong thời gian này, qua công tác nắm tình hình, cảnh sát kinh tế phát hiện có một số hồ sơ rút và chuyển khoản tiền gửi tiết kiệm với số lượng lớn. Các giao dịch này có dấu hiệu giả mạo chữ ký của khách hàng.

Làm việc với các chủ tài khoản, họ cho biết không rút tiền gửi hoặc chuyển khoản tiền tiết kiệm tại ngân hàng Eximbank. Nhà chức trách đặt nghi vấn có người giả mạo chữ ký để làm việc này. Trong đó, Lam được đưa vào diện nghi vấn.

Ngày 21/9, Lam đến công an đầu thú, thừa nhận mình là chủ mưu vụ việc.

Nữ cán bộ kiểm ngân này khai nhận lợi dụng quen biết và vị trí công tác của bản thân, đã giả mạo chữ ký khách hàng, lập hồ sơ khống. Lam đã thực hiện các giao dịch rút tiền hoặc chuyển tiền từ sổ tiết kiệm của các khách hàng vào tài khoản của một số người thân để chiếm đoạt. Đến thời điểm đến đầu thú, số tiền Lam đã chiếm đoạt là hơn 47 tỷ đồng.

Theo cơ quan điều tra, Lam chiếm đoạt của khách Nguyễn Tiến Nam (54 tuổi, ở thị trấn Đô Lương) hơn 30 tỷ đồng, Nguyễn Thị Kiều Hương - Hiệu trưởng một trường THPT hơn 10 tỷ đồng.

Theo Phạm Hòa

Zing News

Đọc tiếp »

Bất ngờ các ngân hàng đồng loạt giảm lãi suất huy động

Từ hôm nay (26-9), nhiều ngân hàng thương mại đã giảm lãi suất huy động VND 0,3%-0,5%/năm.

Ngân hàng Nhà nước cho biết từ hôm nay (ngày 26/9), một số TCTD lớn trong đó có các NHTMNN đã điều chỉnh giảm lãi suất huy động VND ở các kỳ hạn dưới 1 năm với mức giảm từ 0,3-0,5%/năm.

Theo đó, lãi suất áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và dưới 1 tháng được các TCTD này công bố ở mức 0,3-0,5%/năm, kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 3 tháng ở mức 4,2-4,3%/năm, kỳ hạn từ 3 tháng đến dưới 5 tháng ở mức 4,8%/năm, kỳ hạn từ 5 tháng đến dưới 6 tháng ở mức 5%/năm, kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 9 tháng ở mức 5,3%/năm, và kỳ hạn từ 9 tháng đến dưới 12 tháng ở mức 5,5%/năm.

Động thái điều chỉnh giảm lãi suất huy động của các TCTD nêu trên là giải pháp tích cực, kịp thời nhằm triển khai định hướng điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ đã được Thống đốc NHNN cụ thể hóa cho ngành ngân hàng tại Chỉ thị số 04/CT-NHNN ngày 27/5/2016 tiết giảm chi phí để phấn đấu cắt giảm lãi suất cho vay qua đó hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế.

Từ đầu năm đến nay, NHNN đã bám sát thị trường, điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ, hỗ trợ thanh khoản của hệ thống, tạo điều kiện để giữ mặt bằng lãi suất liên ngân hàng ở mức thấp; qua đó tạo điều kiện ổn định mặt bằng lãi suất huy động và giảm sức ép lên lãi suất cho vay của các TCTD, đồng thời đảm bảo các mục tiêu ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước.

Kim Tiền

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Ngân hàng tính tăng điều kiện phòng rủi ro tài khoản

Nhiều điểm mới dự kiến sẽ được bổ sung vào thủ tục mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng...

Ngân hàng Nhà nước đang lấy ý kiến hoàn thiện dự thảo thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư 23/2014/TT-NHNN hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.

Nguyên do, việc sửa đổi và bổ sung Thông tư 23 cho phù hợp với những thay đổi của cơ sở pháp lý, từ việc thay thế Bộ Luật dân sự năm 2005 bằng Bộ Luật dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ 1/1/2017); cũng như bổ sung thêm căn cứ là Nghị định số 80/2016/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt.

Đáng chú ý, nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung cũng xuất phát từ thực tế phát sinh trong hoạt động của các ngân hàng thương mại, nhất là sau một số vụ việc rủi ro tài khoản xẩy ra gần đây.

Theo quy định hiện hành, chủ tài khoản của tổ chức là người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền của tổ chức mở tài khoản và thay mặt tổ chức đó thực hiện các giao dịch liên quan đến tài khoản thanh toán. Nhưng theo dự thảo mới, chủ tài khoản thanh toán của tổ chức là tổ chức mở tài khoản; và người đại diện hợp pháp của tố chức mở tài khoản thanh toán thay mặt tổ chức đó thực hiện các giao dịch liên quan đến tài khoản thanh toán trong phạm vi đại diện.

Quy định về “Ủy quyền trong sử dụng tài khoản thanh toán” cũng có điều chỉnh trong dự thảo thông tư mới.

Ở quy định hiện hành, trong quá trình sử dụng tài khoản thanh toán, chủ tài khoản thanh toán, kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán (nếu có) được ủy quyền cho người khác. Việc ủy quyền phải bằng văn bản và phải được thực hiện theo quy định của pháp luật về ủy quyền. Việc ủy quyền của tổ chức phải được sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức mở tài khoản.

Quy định trên dự kiến sẽ điều chỉnh lại theo hướng: chủ tài khoản thanh toán được ủy quyền cho người khác, tổ chức khác sử dụng tài khoản thanh toán của mình; việc ủy quyền phải bằng văn bản và được thực hiện theo quy định của pháp luật về ủy quyền.

Một điểm được chú ý khác trong dự thảo mới, có trong một tình tiết ở sự việc khách hàng tố bị mất 26 tỷ đồng tại VPBank gần đây (hiện chưa có kết luận cuối cùng).

Đó là, quy định hiện hành chỉ yêu cầu tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có nghĩa vụ lưu giữ mẫu chữ ký của chủ tài khoản, kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán (trường hợp khách hàng là tổ chức thuộc đối tượng bắt buộc phải bố trí kế toán trưởng) và những người được ủy quyền để kiểm tra, đối chiếu trong quá trình sử dụng tài khoản thanh toán.

Còn theo hướng điều chỉnh mới, họ phải lưu giữ và cập nhật đầy đủ mẫu chữ ký của chủ tài khoản (hoặc người đại diện hợp pháp của chủ tài khoản), mẫu dấu (nếu có), mẫu chữ ký (nếu có) của kế toán trưởng, người phụ trách kế toán (hoặc người được ủy quyền) và các thông tin về tài khoản thanh toán để kiểm tra, đối chiếu trong quá trình sử dụng tài khoản thanh toán.

Những điểm quy định chặt chẽ hơn ở trên cũng dự kiến đưa vào trong quy định về hồ sơ đề nghị mở tài khoản thanh toán của các tổ chức.

Và cũng từ thực tế phát sinh thời gian gần đây, với chủ trương mà Ngân hàng Nhà nước yêu cầu xác định rõ ràng và chặt chẽ trách nhiệm trong các trường hợp phát sinh rủi ro, dự thảo thông tư mới cũng đã có bổ sung cụ thể.

Theo đó, dự kiến khi mở tài khoản thanh toán, nội dung hợp đồng giữa khách hàng và ngân hàng phải ghi rõ trách nhiệm của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong việc tiếp nhận thông tin từ khách hàng, thời gian xử lý, phương án đền bù đối với các trường hợp phát sinh rủi ro, sự cố trong quá trình sử dụng tài khoản thanh toán.

Theo Nhật Nam

VnEConomy

Đọc tiếp »

Kiều hối nắn dòng

Lượng kiều hối ngày càng chảy nhiều hơn vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; thay vì đầu tư bất động sản, chứng khoán hoặc chi tiêu như trước.

Nguồn lực kiều hối không ngừng tăng trong những năm qua đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam. Số liệu mới công bố cho thấy, sau 8 tháng đầu năm 2016, lượng kiều hối chuyển về TP. Hồ Chí Minh ước đạt 2,85 tỷ USD, tăng gần 6% so với cùng kỳ năm trước. Lượng kiều hối ngày càng chảy nhiều hơn vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; thay vì đầu tư bất động sản (BĐS), chứng khoán hoặc chi tiêu như trước.

Sản xuất, kinh doanh hấp thụ dòng kiều hối có nhiều nguyên nhân. Trong đó phần lớn xuất phát từ nỗ lực của Chính phủ trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, kéo theo nhiều cơ hội kinh doanh hấp dẫn. Bên cạnh đó, việc Việt Nam ký kết hàng loạt Hiệp định Thương mại tự do, đặc biệt là tham gia TPP và AEC khiến Việt Nam có nhiều lợi thế trong kinh doanh với các đối tác tham gia hiệp định. Việc Việt Nam giảm nhiều loại thuế trong kinh doanh cho DN, cộng thêm vai trò của DN tư nhân và DN nước ngoài đang dần khẳng định vị trí của mình… cũng kích thích dòng kiều hối đổ về mạnh hơn.

Một chuyên gia tài chính chia sẻ: Từ khi NHNN áp dụng cơ chế điều hành tỷ giá mới, cùng với việc đưa lãi suất tiền gửi ngoại tệ về 0%, kiều bào đã thay đổi cách sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi. Thay vì nhờ người thân gửi tiết kiệm lấy lãi và chờ tỷ giá tăng, thì nay họ cân nhắc, tính toán để có mục tiêu đầu tư rõ ràng hơn. Nguyên nhân nữa được các chuyên gia đề cập còn đến từ chuyện thị trường chứng khoán (TTCK) phát triển thiếu ổn định, vốn hoá thị trường còn nhỏ…

Với thị trường BĐS dù đã có hiện tượng ấm lên, nhưng vài tháng trở lại đây có dấu hiệu tăng trưởng chậm… Những yếu tố này trở thành bàn tay vô hình nắn dòng kiều hối vào khu vực sản xuất kinh doanh.

Theo chuyên gia kinh tế TS. Bùi Quang Tín, giảng viên khoa Quản trị kinh doanh, ĐH Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh, phần lớn trong nguồn kiều hối chuyển về Việt Nam là từ thị trường Mỹ, Úc và Canada. Trong đó, Mỹ chiếm tỷ lệ lớn nhất với khoảng 7 tỷ USD trong tổng lượng kiều hối chuyển về Việt Nam thời gian qua. Điều này đồng nghĩa với việc USD chiếm gần 60%, theo sau là đồng đô la Úc và đô la Canada chiếm gần 20%, còn lại là tiền của các quốc gia khác.

Chính bởi vậy, bên cạnh tiếp tục phát huy thế mạnh lượng kiều hối của người Việt Nam từ Mỹ chuyển về qua việc tạo điều kiện sản xuất kinh doanh, giảm thuế… cũng cần quan tâm hơn tới việc hỗ trợ người Việt Nam đang đi lao động tại các quốc gia khác trên thế giới. “Bởi nếu tập trung vào thị trường Mỹ, khi nền kinh tế Mỹ khó khăn thì sẽ ảnh hưởng tới lượng kiều hối về Việt Nam”, vị này nhận định.

Không phủ nhận lượng kiều hối chuyển về đã góp phần tăng thặng dư, giúp NH tăng dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên, ở mặt khác, cũng có ý kiến cho rằng nếu trường hợp cán cân thanh toán quốc tế dương, kiều hối có thể tạo ra áp lực cho nền kinh tế. Và nếu hấp thụ một lượng lớn kiều hối, rất có thể khiến đồng nội tệ lên giá, ảnh hưởng cạnh tranh của hàng hoá trong nước. Về vấn đề này, theo quan điểm của TS. Bùi Quang Tín: Thời gian qua, bên cạnh lượng ngoại tệ về Việt Nam từ con đường kiều hối, còn có các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn hỗ trợ ODA và một số nguồn đầu tư khác.

Trong 8 tháng đầu năm 2016, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 9,8 tỷ USD; tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2015. Các nguồn tiền này sẽ giúp cho cán cân thanh toán quốc tế dương.

Để ổn định tỷ giá thời gian qua, NHNN đã mua vào một lượng lớn ngoại tệ, trong đó đặc biệt là đồng USD, từ đó hỗ trợ cho thanh khoản VND dồi dào trên thị trường, tạo cơ hội cho lãi suất VND giảm thời gian tới. Do đó, NHNN đã có giải pháp xử lý được lượng USD và ngoại tệ khác dư thừa trên thị trường.

Bên cạnh đó, FED quyết định chưa nâng lãi suất cơ bản tại cuộc họp ngày 20/9/2016, đồng CNY cũng chưa có nhiều biến động - “những yếu tố trên sẽ giúp cho tỷ giá USD/VND tiếp tục ổn định và có thể tăng thêm 2% cho đến cuối năm”.

Trong 5 năm qua (từ 2011 - 2015), lượng kiều hối chuyển về Việt Nam tăng bình quân 10 - 12% sau mỗi năm. Đây được xem là mức tăng khá ấn tượng trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế toàn cầu.

Làm một phép so sánh, TS. Bùi Quang Tín đưa ra con số năm 1991 kiều hối về Việt Nam ước chừng chỉ đạt 35 triệu USD, thì tới năm 2015 đã tăng lên 12,25 tỷ USD với tốc độ tăng trung bình hàng năm hơn 38%. Ông Tín nhận định: “Với tốc độ tăng trưởng và các điều kiện kể trên, chúng ta có thể kỳ vọng kiều hối về Việt Nam năm nay rơi vào khoảng từ 13 - 15 tỷ USD”.

Theo Khuê Nguyễn

Thời báo ngân hàng

Đọc tiếp »

Công ty tài chính cho vay 2 tỷ USD

CTCP Truyền thông Tài chính (StoxPlus) vừa công bố kết quả thống kê thị phần cho vay của các công ty tài chính hiện vào khoảng 2 tỷ USD trong tổng dư nợ cho vay tiêu dùng.

Thống kê cũng đưa ra tốc độ phát triển của toàn thị trường cho vay tiêu dùng của Việt Nam năm 2015 tăng 44% so với năm trước đó và chiếm 6,8% tổng dư nợ nền kinh tế.

Theo kết quả khảo sát của công ty này thì thị trường cho vay tiêu dùng năm 2015 đã chiếm 10,4% GDP. Sự phát triển nhanh chóng này có yếu tố các công ty tài chính năm 2015 có số lượng tăng gấp đôi năm 2014, thông qua các thương vụ mua bán, sáp nhập. Đặc biệt là sau khi có dự thảo quy định NHTM phải thành lập công ty tài chính để cấp tín dụng tiêu dùng cho những khách hàng phi chuẩn.

Mặc dù tỷ lệ cho vay tiêu dùng của các công ty tài chính còn thấp hơn và xuất hiện sau các NHTM, nhưng lại có tốc độ tăng trưởng vượt bậc. Nếu năm 2012 khoảng 0,4%, năm 2013: 46,2%, năm 2014: 67,3%, thì đến năm 2015 là 126%. Nhờ món vay nhỏ, cấp vốn linh hoạt, các công ty tài chính đang có độ bao phủ thị trường lớn hơn các NHTM. Hiện nay FE Credit chiếm 53% thị phần, Home Credit 16% thị phần, HD Saison Finance 12% thị phần và Prudential Finance 11%...

Những điều đáng quan tâm hơn là nó đang thay đổi thói quen tiêu dùng của người Việt. Các món vay có giá trị dưới 10 triệu lại là các khoản vay chiếm tỷ trọng cao đối với khách hàng của công ty tài chính. Thị phần hoạt động của công ty tài chính hiện còn rất lớn, bởi một bộ phận lớn dân cư, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa và những người có thu nhập thấp khả năng tiếp cận hệ thống NH còn khó khăn. Trong khi đó bản thống kê của StoxPlus cho biết hiện có đến 53 triệu người Việt đang ở độ tuổi lao động chưa có tài khoản NH, thu nhập thấp sẽ là mảng thị phần quan trọng cho vay tiêu dùng.

Song các công ty tài chính hiện cũng đang phải đối mặt với những thách thức về chi phí hoạt động khi thị trường có thêm nhiều đối thủ buộc các DN phải tăng phí hoa hồng tại các điểm bán lẻ hàng hóa mà công ty tài chính phối hợp cho vay mua hàng trả góp. Hơn nữa, chi phí thanh toán, thu hộ nợ góp hiện các công ty tài chính đang phải lệ thuộc vào các phương tiện thanh toán như ví điện tử MoMo, Payoo.

Trong một khảo sát mới đây các công ty tài chính phải trả cho những mô hình thanh toán trung gian này một mức phí từ 5% đến 8% đối với mỗi giao dịch. Điều này dẫn đến sự sụt giảm đáng kể lợi nhuận của các công ty tài chính tiêu dùng.

Vấn đề là các công ty cung cấp dịch vụ thanh toán như MoMo, Payoo… với lợi thế cơ sở dữ liệu và phương tiện internet hiện có rất nhiều khả năng họ sẽ tham gia thị trường cho vay tiêu dùng trong thời gian tới.

Thêm vào đó các NHTM gần đây cũng đang quan tâm trở lại thị trường cho vay tiêu dùng như một giải pháp cho chiến lược bán lẻ trong tương lai. Trong khi đó lãi suất của các công ty tài chính tiêu dùng hiện nay đang cao hơn lãi suất của các NHTM cho vay tiêu dùng từ 30-60%. Mức độ rủi ro của các công ty tài chính tiêu dùng cao hơn nhiều so với các NHTM. Ngoài ra, vấn đề quản lý tài chính của người tiêu dùng Việt Nam còn hạn chế cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng trả nợ cho những khoản vay phi tiêu chuẩn.

Để vượt qua những thách thức này cần phải có khuôn khổ pháp lý hoàn thiện cho các công ty tài chính hoạt động để cung cấp cho thị trường nhiều hơn nữa các sản phẩm tài chính cá nhân.

Theo TS. Nguyễn Thị Kim Thanh

Thời báo ngân hàng

Đọc tiếp »

Giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn vay với lãi suất hợp lý

Từ nay đến tháng 6-2017, các NH thương mại trên địa bàn sẽ tập trung giải ngân số vốn đã cam kết trong chương trình kết nối và sẽ dành 150.000 tỷ đồng vốn tín dụng để hỗ trợ các DN tập trung sản xuất, kinh doanh.

Sáng 26-9, UBND TP Hà Nội phối hợp Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tổ chức Hội nghị kết nối ngân hàng-Doanh nghiệp (DN) trên địa bàn thành phố, nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn cho DN, giúp DN tiếp cận vốn vay với lãi suất hợp lý.

Chương trình có sự tham gia của 80 tổ chức tín dụng và gần 200 DN sản xuất, kinh doanh, hộ sản xuất của các làng nghề. Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Doãn Toản tham dự.

Thực hiện chương trình kết nối NH-DN từ năm 2014 đến nay, các NH đã đưa ra nhiều gói tín dụng phù hợp cho các nhóm ngành nghề, đặc biệt ưu tiên, khuyến khích cho DN nhỏ và vừa, các DN tham gia chương trình bình ổn thị trường với lãi suất cho vay thấp hơn mặt bằng lãi suất chung từ 1,5 - 2%/năm. 8 tháng đầu năm 2016, chương trình kết nối NH - DN của Hà Nội đã giải ngân được hơn 121.000 tỷ đồng. Trong đó, cho vay các mặt hàng theo chương trình bình ổn thị trường là hơn 14.400 tỷ đồng.

Phát biểu tại hội nghị, Phó Chủ tịch Nguyễn Doãn Toản cho biết, với khoảng hơn 200.700 DN đang hoạt động trên địa bàn, nhu cầu về nguồn vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh là rất lớn. Các tổ chức tín dụng trên địa bàn đã thường xuyên, chủ động nguồn vốn, áp dụng các biện pháp hỗ trợ DN như: đồng hành cùng DN, tư vấn cho DN trong quản trị, điều hành, xây dựng, chiến lược phát triển sản xuất, kinh doanh, tổ chức cho vay theo chuỗi các DN liên kết tiêu thụ sản phẩm, cung cấp các sản phẩm dịch vụ tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn vốn của các DN.

Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh Hà Nội, từ nay đến tháng 6-2017, các NH thương mại trên địa bàn sẽ tập trung giải ngân số vốn đã cam kết trong chương trình kết nối và sẽ dành 150.000 tỷ đồng vốn tín dụng để hỗ trợ các DN tập trung sản xuất, kinh doanh góp phần bình ổn giá thị trường thời điểm cuối năm.

Ngay tại hội nghị, 10 tổ chức tín dụng đã kết nối trực tiếp với các DN tham gia. Tổng số vốn ký kết đạt gần 3.000 tỷ đồng.

Theo Thanh Hiền

Hà Nội mới

Đọc tiếp »

Vốn ngân hàng “ế”, vì sao?

Thanh khoản dồi dào là cụm từ được nhắc đến nhiều nhất khi nhận định về hoạt động của hệ thống ngân hàng (NH) trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, điều đáng nói là vốn ngân hàng vẫn ế trong khi mục tiêu giảm lãi suất vẫn tận đẩu, tận đâu.

Mất lòng tin khiến vốn liên NH “ế”?

Cách đây hai năm, trong câu chuyện về lợi nhuận, lãnh đạo một NH tiết lộ, lợi nhuận NH tăng có sự đóng góp rất lớn kinh doanh vốn trên thị trường liên NH. Nhưng thời điểm này thì tình thế đã đảo chiều, vốn liên NH đang ế.

Tại sao trên thị trường 2 vốn ế nhiều như vậy? Một lãnh đạo NH giải thích, một phần bởi nhu cầu vay mượn trên thị trường này không nhiều do thanh khoản của nhiều NH tốt hơn, nhưng phần nữa do chính các NH đang thiếu lòng tin ở nhau nên hạn chế cho nhau vay mượn. Chính vì thế, hoạt động trên thị trường này khá tẻ nhạt trong thời gian vừa qua. Lãi suất trên thị trường này vì thế giảm liên tục. Theo Trung tâm nghiên cứu kinh tế MaritimeBank, so với cuối tuần trước, lãi suất VND giảm nhẹ ở hầu hết các kỳ hạn. Cụ thể, lãi suất qua đêm ở mức 0,55%, 1 tuần là 0,58%... giảm 4-5% so với cuối năm 2015.

Trong khi lãi suất trên thị trường 2 liên tục giảm, thì trên thị trường 1, những ngày gần đây nhiều NH lại rục rịch tăng lãi suất. Chỉ trong tuần đầu tháng 9, VietCapitalBank đã tăng lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6 tháng từ 7%/năm lên 7,1%/năm, kỳ hạn 13 tháng từ 7,5%/năm lên 7,8%/năm. Cũng tăng lãi suất nhưng VPBank tăng ở kỳ hạn ngắn hạn với lãi suất kỳ hạn 1 tháng tăng từ 4,8%/năm lên 5%/năm, kỳ hạn hai tháng từ 5%/năm lên 5,2%/năm…

Điều này có vẻ như mâu thuẫn, và dường như mục tiêu cố gắng giảm thêm lãi suất của NHNN đang thất bại. Từ đầu năm đến nay qua các thông điệp từ cơ quan quản lý có thể hiểu NHNN mong muốn lãi suất liên NH là lãi suất để các NH tham chiếu áp dụng điều chỉnh lãi suất trên thị trường 1. Nhưng thực tế diễn biến trên thị trường 1 đang không như mong muốn của NHNN. Vì sức khỏe của các NH không thực sự đồng đều tác động đến quyết định giảm lãi suất. CEO một NH thừa nhận NH ông cũng rất muốn giảm lãi suất nhưng nếu giảm lại “sợ” vốn chảy qua NH khác đang chào mời với lãi suất cao hơn.

Chỉ hạ với một vài lĩnh vực

“Còn tồn tại những NH yếu kém thì không tránh được cạnh tranh không lành mạnh nhất là về lãi suất”, TS Cấn Văn Lực khẳng định. Nhưng không hẳn việc tăng lãi suất của các NH là có “vấn đề”. Đảm bảo vốn phục vụ mùa tín dụng cuối năm, áp lực quy định tỷ lệ tối đa sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn của NH tăng dần khi sang năm 2017 tỷ lệ này sẽ là 50% xa hơn năm 2018 rút xuống còn 40%. Chưa kể, cách tính dư nợ trung, dài hạn của Thông tư 06 có thay đổi lớn cũng khiến các NH phải đẩy mạnh huy động vốn để cải thiện tỷ lệ này. Cụ thể, với các khoản cho vay, cho thuê tài chính, số dư mua, đầu tư giấy tờ có giá có kỳ hạn dưới 12 tháng nếu để quá hạn sẽ bị tính vào dư nợ trung, dài hạn. Đương nhiên tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ làm tăng dư nợ trung, dài hạn. Vì thế các NH phải bù đắp vốn để không vượt ngưỡng quy định của NHNN, và cũng để phòng thủ thanh khoản.

Động thái điều chỉnh giảm lãi suất huy động của các TCTD được NHNN đánh giá giải pháp tích cực, kịp thời nhằm triển khai định hướng điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ , NHNN tiết giảm chi phí để phấn đấu cắt giảm lãi suất cho vay qua đó hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế.

Tuy nhiên, tham vấn một chuyên gia NH, vị này cho rằng lãi suất giảm chỉ ở một bộ phận các NH quy mô lớn, năng lực tài chính tốt. Trước những áp lực từ cả khách quan áp lực lạm phát, thay đổi chính sách lãi suất của FED, và chủ quan là nợ xấu còn tồn đọng nhiều mà chưa có phương án xử lý triệt để nên NH vẫn phải tăng trích lập DPRR… mặt bằng lãi suất thị trường 1 vẫn có áp lực nhất định nhất là đối với NH yếu kém, đói vốn. CEO một NH khẳng định, lãi suất huy động giảm là điều kiện NH giảm lãi suất cho vay nhưng nếu hạ thì NH sẽ chỉ hạ cục bộ với một số lĩnh vực ưu tiên như 5 lĩnh vực ưu tiên, DN khởi nghiệp. Còn cho vay dài hạn đối với một số lĩnh vực như BĐS, BOT, BT giao thông thì chắc chắn là không.

Mặc dù chưa nhiều NH thực hiện giảm lãi suất cho vay, nhưng theo đánh giá của các chuyên gia trong bối cảnh chịu nhiều sức ép thì việc duy trì được mặt bằng lãi suất như hiện nay là điểm cộng đối với NHNN. Tất nhiên thị trường đòi hỏi một mặt bằng lãi suất thấp hơn, nhưng như phân tích ở trên, và so với một số nền kinh tế đang phát triển với kinh tế vĩ mô chưa thực sự ổn định với tư cách là trung gian tài chính, mặt bằng lãi suất hiện nay là chấp nhận được.

Theo các chuyên gia, tỷ lệ sử dụng vốn trên huy động của toàn hệ thống ở mức 86% cho thấy thanh khoản của các NH ở mức vừa phải chứ không quá dư thừa như trên thị trường 2. Một lý do nữa khiến các NH chưa thể giảm được lãi suất trên thị trường 1 là do thanh khoản chỉ dồi dào ở trên thị trường 2 còn trên thị trường 1, nhiều NH gặp khó khăn về thanh khoản nhất là những NH yếu kém.

Theo Hà Phương

Tiền phong

Đọc tiếp »

Thứ Ba, 4 tháng 10, 2016

Giảm lãi suất huy động: Khỏe thì ra gió?

Nhìn về quyết định cùng giảm lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại nhà nước...

Ngày 26/9, các ngân hàng thương mại nhà nước (gồm Vietcombank, VietinBank, BIDV và Agribank) “cùng hẹn” giảm mạnh lãi suất huy động VND.

Giảm mạnh, vì mức 0,3-0,5%/năm ở hầu hết các kỳ hạn dưới 12 tháng là lớn so với nền lãi suất huy động khá thấp hiện nay. Diễn biến này rất đáng chú ý, vì khối ngân hàng thương mại nhà nước đang chiếm tới trên dưới 50% thị phần huy động và cho vay.

Quyết định trên khá bất ngờ, có thể khiến nhiều con mắt theo dõi trên thị trường sực tỉnh, sau một thời gian khá dài lãi suất chỉ có nhúc nhích tăng, hoặc trơ trên biểu niêm yết.

Khác biệt… có lý do

Những năm gần đây, như một thông lệ, lãi suất thường giảm đầu năm. Sau mùa cao điểm chi trả Tết dương lịch và Tết Nguyên đán, dòng tiền trở lại ngân hàng và họ thường có điều chỉnh.

Năm nay, trước mùa cao điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thời điểm tín dụng thường bứt phá ở những năm trước, lãi suất “lẽ ra” tăng để các nhà băng chủ động thêm về nguồn để tăng giải ngân, nhưng nó lại bất ngờ giảm.

Chỉ vừa mới tuần trước, nhiều thông tin còn phản ánh lãi suất huy động VND có biểu hiện tăng ở một vài ngân hàng thương mại. Nhưng chính tuần lại là thời điểm có tính chất bản lề để lãi suất giảm.

Đó là tuần Ngân hàng Nhà nước phát hành tín phiếu dày nhất, nhiều nhất từ đầu năm đến nay, để hút bớt tiền về. Lý do, họ không còn phải cài răng lược với Bộ Tài chính ở kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ. Tuần qua, khác biệt trọng yếu so với những năm qua là, Kho bạc Nhà nước đã hoàn thành kế hoạch huy động vốn qua trái phiếu Chính phủ của cả năm chỉ sau chưa đầy 9 tháng.

Khác biệt trọng yếu đó một phần giải thích cho quyết định cùng giảm lãi suất của 4 “ông lớn” nói trên. Kênh đầu tư vốn qua đấu thầu trái phiếu Chính phủ đã tạm ngừng. Tiền có trạng thái dư thừa thời gian qua, nay bớt một đầu ra lớn đó, có thể càng thừa.

Thế nhưng, vì sao 4 ngân hàng thương mại nhà nước “cùng hẹn” giảm mạnh lãi suất như vậy? Câu trả lời cũng có phần khác biệt ở riêng khối này.

Trước hết, hiện chưa có dữ liệu cập nhật về tăng trưởng tín dụng đến tháng 9/2016. Tuy nhiên, ở kênh đầu ra chủ yếu này, tốc độ đã có dấu hiệu chậm đi trong tháng 8 vừa qua. Cả hệ thống, tăng trưởng chung sau 8 tháng mới chỉ đạt nửa mức độ chỉ tiêu đề ra cho cả năm. Đẩy mạnh cho vay hiện nay không dễ dàng.

Riêng khối 4 ngân hàng trên, hệ số an toàn vốn hạn chế vẫn còn treo ở BIDV và VietinBank (do vướng mắc kế hoạch cổ tức và tăng vốn). Chính BIDV cũng từng công bố lượng định chi tiết về hạn chế này đối với khả năng tăng tín dụng.

Và định hướng chung, dự kiến họ có muốn tăng trưởng mạnh thì cũng không thể, khi định hướng chỉ tiêu của khối được biết tối đa chỉ khoảng 17% cả năm mà thôi.

Có thực sự khỏe để ra gió?

Một lý do đặc thù khác. Khối ngân hàng thương mại nhà nước có lượng tiền gửi thanh toán rất lớn, từ ngân sách nhàn rỗi, các quỹ bảo hiểm xã hội, y tế… Nguồn này gần như kém nhạy so với thay đổi lãi suất.

Nhưng, tiền gửi của dân cư sẽ nhạy. Nhất là hiện nay lãi suất đã về mức thấp nhất trong hơn chục năm trở lại đây. Sức dư vốn của khối này có thực sự đủ khỏe để đỡ độ nhạy của phản ứng tiền gửi dân cư hay không. Dĩ nhiên là họ đã tính toán, cũng như có thể có những yếu tố mà bên ngoài hiện thời không nắm được (mức độ được tái tạo nguồn từ trái phiếu đặc biệt VAMC như thế nào).

Họ đã tính toán. Trong các tính toán vẫn có tình huống: khi đầu ra tín dụng hạn chế, cách để giảm chi phí và hỗ trợ lợi nhuận là tiết giảm đầu vào, lãi suất huy động là đầu vào. Thực tế, 6 tháng đầu năm nay đã có trường hợp phải chọn cách này, khi tỷ lệ sử dụng vốn quá thấp, tín dụng tăng trưởng chậm và buộc phải huy động chậm lại qua chính sách lãi suất kém cạnh tranh.

Có những lý do như trên để các ngân hàng thương mại nhà nước lượng sức khỏe của mình để giảm lãi suất huy động. Song, yếu tố song hành ở đây vẫn là vai trò của Ngân hàng Nhà nước.

Thoạt tiên, khi trao đổi với VnEconomy, đã có ý kiến cho rằng quyết định giảm lãi suất của khối ngân hàng trên là một biểu hiện nới lỏng chính sách. Tuy nhiên, đây là lãi suất chủ động của các thành viên, khác với các lãi suất chủ chốt của nhà điều hành mà một khi thay đổi dễ phát đi tín hiệu nới lỏng hay thắt lại.

Song, hướng nới lỏng gián tiếp có thể nhìn nhận ở tốc độ tăng trưởng cung tiền (điểm còn thiếu trong dữ liệu báo cáo tháng 8 vừa qua, và chưa có cập nhật đến tháng 9). Hay Ngân hàng Nhà nước để một trạng thái dư thừa vốn trong hệ thống nhất định, như tạo điều kiện để giảm được lãi suất.

Và như trên, một yếu tố khác sẽ cấu thành sức khỏe của các ngân hàng hiện nay trước gió ngược lãi suất đối với sức hấp dẫn huy động, xét về nguồn vốn, là mức độ hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước qua tái cấp vốn bằng kênh trái phiếu đặc biệt VAMC. Hoạt động này được nhắc đến nhiều lần trong các định hướng chính sách gần đây, dĩ nhiên là với mức độ và kỳ hạn được kiểm soát chặt chẽ trong mối quan hệ với lạm phát.

Trong các thành viên trên, ngoại trừ Vietcombank có lượng nợ xấu bán lại cho VAMC khá ít, thì còn lại quy mô lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng. Nếu mức độ được tái tạo đáng kể, lãi suất tái cấp vốn dễ chịu ở kỳ hạn tốt hơn, thì họ sẽ bớt áp lực cạnh tranh lãi suất trên thị trường.

Và sau quyết định điều chỉnh ngày 26/9, chênh lệch lãi suất huy động giữa khối ngân hàng thương mại nhà nước với khối cổ phần đã doãng rộng. Có thể các thành viên khối cổ phần sẽ xem xét nhập cuộc theo thời gian tới.

Riêng tại BIDV và VietinBank, lãi suất các kỳ hạn ngắn đã không còn cạnh tranh ngang ngửa với một số thành viên khác như Eximbank, Sacombank, ACB… như vừa qua, thậm chí đã kéo về gần ngang với Vietcombank (thành viên luôn áp thấp nhất trong suốt năm qua).

Sẵn sàng trách nhiệm?

Như trên, vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong tạo điều kiện giảm lãi suất là không thể phủ nhận.

Dù các công cụ thường phát đi tín hiệu nới lỏng hoặc thắt chặt là dự trữ bắt buộc và các lãi suất điều hành vẫn giữ nguyên, nhưng hoạt động điều tiết vốn qua thị trường mở, qua tiền cung ứng mua ngoại tệ rất lớn, qua tái cấp vốn trái phiếu VAMC, hay gần đây được chú ý ở tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán…, đều có thể phản ánh một sự nới lỏng nhất định.

Nếu thực sự có nới lỏng, và đến nay lãi suất đã thực sự giảm rõ rệt và khá mạnh ở khối chiếm trên dưới 50% thị phần như trên, Ngân hàng Nhà nước đang cụ thể hóa mục tiêu mà Chính phủ liên tục đề cập từ tháng 4/2016 đến nay.

Và cũng đáng chú ý, nếu có sự nới lỏng để tạo điều kiện giảm lãi suất đó, thì Ngân hàng Nhà nước đã cho thấy mức độ sẵn sàng về trách nhiệm đối với lạm phát trong tương lai. Bởi quá khứ từng cho thấy, một khi có lạm phát tăng cao, sự nới lỏng của chính sách tiền tệ thường là nguyên nhân đầu tiên bị truy xét.

Ở áp lực đó, việc điều hành chính sách tiền tệ cũng cần đủ khỏe, bản lĩnh để có thể phải “ra gió” trong tương lai, nếu có tình huống lạm phát tăng cao về sau. Tất nhiên, nếu có sự nới lỏng đó, hẳn Ngân hàng Nhà nước cũng đã trù tính kỹ khả năng tác động và tầm kiểm soát đối với lạm phát với độ trễ của nó; và lạm phát còn tùy thuộc vào nhiều tác động khác nữa.

Ít nhất, cơ quan này đã có quá trình hành động thực sự để lãi suất giảm được. Chi phí của hơn 5 triệu tỷ đồng các khoản vay, dù đã ký rồi, tới đây có thêm hy vọng được giảm bớt. Đây là kỳ vọng lợi ích cụ thể cho doanh nghiệp và người dân vay vốn.

Theo Minh Đức

VnEconomy

Đọc tiếp »

Giá vàng quay đầu tăng nhẹ

Mở cửa phiên giao dịch sáng nay, giá vàng đầu phiên tăng nhẹ từ 20 – 50 nghìn đồng/lượng. Khoảng cách chênh lệch giữa vàng trong nước với vàng thế giới hiện chỉ còn khoảng 250 nghìn đồng mỗi lượng.

Giá vàng miếng SJC niêm yết tại CTCP Vàng bạc đá quý Phú Nhuận (PNJ) sáng nay tại khu vực Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ ở cùng mức giá 36,10 – 36,30 triệu đồng/lượng, giá bán ra ổn định so với phiên giao dịch cuối giờ chiều ngày hôm qua.

Tại thị trường Hà Nội, giá vàng miếng SJC đang được niêm yết tại công ty PNJ ở mức giá 36,18 – 36,25 triệu đồng/lượng, trong ngày hôm qua lượng giao dịch vàng miếng tại các cửa hàng PNJ khá ổn định, đa số vẫn là các giao dịch nhỏ lẻ ở tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh là chủ yếu.

Công ty VBĐQ SJC niêm yết giá vàng miếng ở mức 36,09 – 36,31 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra), tăng 50 nghìn đồng/lượng so với phiên giao dịch cuối ngày hôm qua. Tập đoàn VBĐQ DOJI niêm yết ở mức 36,19 – 36,26 triệu đồng/lượng, tăng 20 nghìn đồng/lượng.

Trên thị trường thế giới, giá vàng phiên 26/9 tăng nhẹ khi giới đầu tư chờ cuộc tranh luận trực tiếp đầu tiên giữa 2 ứng viên Tổng thống Mỹ.

Tuần trước, giá kim loại quý đã tăng hơn 2%, ghi nhận tuần tăng giá lớn nhất trong gần 2 tháng, chủ yếu do Fed đưa ra quan điểm thận trọng về việc nâng lãi suất sau phiên họp chính sách tháng 9.

Cuối phiên giao dịch hôm qua, giá vàng giao ngay tăng 0,01% lên 1.337,40 USD/ounce. Giá vàng giao tháng 12/2016 trên sàn Comex tăng 0,2% lên 1.344,10 USD/ounce.

Trên thị trường châu Á, giá vàng hiện đang xoay quanh mức 1.338 USD/ounce. Quy đổi tương đương 36,06 triệu đồng/lượng, như vậy hiện tại vàng trong nước đang cao hơn thế giới khoảng 250 nghìn đồng/lượng.

Tiến Phương

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Động thái các ngân hàng lớn hạ lãi suất huy động: Gió có đổi chiều?

Cách đây một tuần, các ngân hàng thương mại cổ phần vẫn còn chạy đua lãi suất huy động mặc dù thừa vốn. Đột ngột ngày hôm qua, 4 ngân hàng dẫn đầu hệ thống hẹn nhau cùng giảm lãi suất khiến thị trường không khỏi ngỡ ngàng.

Gió đã đổi chiều

Hôm qua (26/9), Ngân hàng Nhà nước bất ngờ phát đi một thông báo cho hay các ngân hàng có quy mô lớn điều chỉnh giảm lãi suất huy động tiền đồng ở nhiều kỳ hạn.

Cụ thể, các kỳ hạn dưới một năm được một số ngân hàng điều chỉnh giảm 0,3-0,5 điểm phần trăm/năm. Theo đó, lãi suất áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và dưới một tháng được các ngân hàng này công bố ở mức 0,3-0,5%/năm, kỳ hạn từ một tháng đến dưới ba tháng ở mức 4,2-4,3%/năm.

Lãi suất huy động đối với tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn từ ba tháng đến dưới năm tháng ở mức 4,8%/năm, kỳ hạn từ năm tháng đến dưới sáu tháng ở mức 5%/năm, kỳ hạn từ sáu tháng đến dưới 9 tháng ở mức 5,3%/năm, và kỳ hạn từ chín tháng đến dưới 12 tháng ở mức 5,5%/năm.

Thông tin trên đã khiến thị trường bất ngờ. Bất ngờ vì trước đó, hàng loạt ngân hàng còn chạy đua tăng lãi suất đầu vào bởi các tổ chức này cho rằng dư thừa thanh khoản là tạm thời, nhưng nhu cầu vốn vay từ hệ thống ngân hàng, kể cả vốn vay trung và dài hạn đã khiến các TCTD vẫn cạnh tranh nguồn vốn huy động ngoài ra còn là vấn đề lòng tin của thị trường bị ảnh hưởng trước một số thông tin bất lợi đến hoạt động ngân hàng.

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, trong 8 tháng đầu năm, lãi suất huy động cơ bản ổn định, có xu hướng tăng nhẹ 0,2-0,3% trong giữa tháng 2 đến tháng 3. Từ tháng 5 trở lại đây, có TCTD điều chỉnh tăng, có TCTD điều chỉnh giảm, nhưng xu hướng chung là ổn định.

Bất ngờ hơn là những tháng cuối năm, nhu cầu vay thường tăng cao minh chứng là tín dụng thường tăng mạnh rõ rệt vào những tháng cuối năm. Những năm trước, vào thời điểm này các ngân hàng đều rục rịch tăng lãi suất đầu vào để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế. Đến nay, 4 ông lớn ngân hàng đã nổ những phát súng đầu tiên, đi ngược lại xu hướng trước đó.

Có khi nào chỉ là chớp nhoáng?

Ngân hàng Nhà nước đánh giá, động thái điều chỉnh giảm lãi suất huy động của các nhà băng là giải pháp tích cực, đã được Thống đốc cụ thể hóa cho ngành ngân hàng tại Chỉ thị số 04 về tiết giảm chi phí nhằm cắt giảm lãi suất cho vay, qua đó hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế.

Từ đầu năm đến nay, Ngân hàng Nhà nước khẳng định đã bám sát thị trường, điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ, hỗ trợ thanh khoản của hệ thống, tạo điều kiện để giữ mặt bằng lãi suất liên ngân hàng ở mức thấp. Thông qua đó, nhà điều hành tạo điều kiện ổn định mặt bằng lãi suất huy động và giảm sức ép lên lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng, đồng thời đảm bảo các mục tiêu ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước.

Luật bất thành văn, từ trước đến nay, khi các ông lớn ngân hàng phát đi tín hiệu tăng hay giảm lãi suất, cũng sẽ kéo theo hàng loạt các ngân hàng cổ phần nhập cuộc.

Tuy nhiên, ở tại thời điểm này, bên cạnh nhiều ngân hàng dư thừa vốn thì một số nhà băng đang phải lên dây cót để huy động vốn chẳng hạn như VPBank và Eximbank, tốc độ tăng trưởng huy động vốn của họ âm hoặc tăng trưởng rất thấp trong thời gian gần đây.

Liệu rằng với những bước đi ngược dòng của các ngân hàng đầu tàu có tạo ra xu hướng chung cho cả hệ thống? Trao đổi với chúng tôi, Giám đốc chi nhánh ngân hàng một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long của Vietcombank cho biết bốn ngân hàng lớn cùng hạ lãi suất huy động thì các ngân hàng nhỏ cũng sẽ khó mà tăng lãi suất huy động được, tạo điều kiện hạ lãi suất cho vay chung trong hệ thống ngân hàng thương mại.

Bình luận thêm về vấn đề này, chuyên gia tài chính ngân hàng, TS.Nguyễn Trí Hiếu hy vọng đây sẽ là tín hiệu tích cực từ các ngân hàng đầu tàu, tạo tiền đề cho các ngân hàng nhỏ làm theo. Tuy nhiên liệu có tạo ra luồng gió mới mạnh mẽ hay không còn phải chờ xem. Bởi vì các ngân hàng lớn thanh khoản của họ rất tốt trong khi đa số các ngân hàng cấp nhỏ hơn vẫn đang rất thiếu vốn, nên để họ giảm lãi suất, giảm sức cạnh tranh thì chắc là rất khó.

Thứ hai, các ngân hàng trung và nhỏ vẫn muốn giữ tỷ lệ LDR (cho vay trên huy động) là 80%, thành ra 100 đồng huy động chỉ dùng 80 đồng, nhà băng muốn tăng tín dụng thì phải tăng yếu tố đầu vào.

Thứ ba, trong Thông tư 06/2016 mới đây, NHNN buộc các ngân hàng từ đầu năm 2017 phải cơ cấu lại vốn, vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung và dài hạn sẽ phải giảm từ 60% xuống còn 50%, khiến các ngân hàng phải huy động thêm vốn để cho vay trung, dài hạn nhằm cân bằng tỷ lệ vốn.

Thứ tư, theo chuyên gia, vấn đề nợ xấu các ngân hàng vẫn còn khá nan giải làm chậm lại dòng tiền quay trở về ngân hàng vì thế muốn trả lãi cho khách hàng ngân hàng cần phải huy động nguồn vốn mới. Dòng vốn tắc nghẽn nên các ngân hàng nhỏ vẫn khát vốn.

Kim Tiền

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Chứng khoán được lợi khi ngân hàng hạ lãi suất huy động

Kênh đầu tư chứng khoán có thể trở nên hấp dẫn hơn tương đối so với kênh gửi tiết kiệm ngân hàng.

Ngân hàng Nhà nước cho biết, từ ngày 26/9, các ngân hàng lớn đã bắt đầu giảm lãi suất huy động khá mạnh cho các kỳ hạn dưới 1 năm, từ 0,3-0,5%/năm.

Theo đó, lãi suất áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và dưới 1 tháng được các tổ chức tín dụng này công bố ở mức 0,3- 0,5%/năm, kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 3 tháng ở mức 4,2-4,3%/năm, kỳ hạn từ 3 tháng đến dưới 5 tháng ở mức 4,8%/năm, kỳ hạn từ 5 tháng đến dưới 6 tháng ở mức 5%/năm, kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 9 tháng ở mức 5,3%/năm, và kỳ hạn từ 9 tháng đến dưới 12 tháng ở mức 5,5%/năm.

Trước đó, trên thị trường liên ngân hàng (thị trường 2), lãi suất đã giảm liên tục trong gần 2 tháng trở lại đây và đang ở mức thấp nhất trong lịch sử khi các kỳ hạn ngắn chỉ còn chưa đến 1%/năm.

Theo đánh giá của công ty chứng khoán Bảo Việt (BVSC), có thể nói, với việc lãi suất trên thị trường 2 giảm mạnh cho thấy sự dư thừa thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, cùng với nỗi lo lạm phát vượt quá mục tiêu 5% đề ra từ đầu năm đến nay tạm thời được giảm bớt, việc các ngân hàng giảm lãi suất đầu vào là hợp lí.

Diễn biến trên giúp tạo điều kiện để lãi suất cho vay được cắt giảm trong thời gian tới, qua đó hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

BVSC đồng thời đánh giá thông tin trên cũng có ý nghĩa tích cực đối với diễn biến TTCK do kênh đầu tư chứng khoán trở nên hấp dẫn hơn tương đối so với kênh gửi tiết kiệm ngân hàng. Mặc dù vậy, thị trường vẫn cần thêm thời gian để đánh giá xu hướng giảm lãi suất trên là bền vững, trong bối cảnh thị trường tiền tệ có khả năng còn nhiều biến động các tháng cuối năm.

Ngọc Toàn

Theo InfoNet

Đọc tiếp »

Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2016

Mánh khóe “rút ruột” 48 tỉ đồng của nhân viên ngân hàng

Bằng cách lập hồ sơ “khống” đề nghị khách hàng ký vào hồ sơ và giả mạo chữ ký, Nguyễn Thị Lam đã rút tiền hoặc chuyển khoản gần 50 tỉ đồng tiền gửi tiết kiệm của khách hàng gửi tại Eximbank.

Sáng 27-9, đại tá Nguyễn Xuân Thiêm, trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và chức vụ (PC46) Công an tỉnh Nghệ An chủ trì buổi họp cung cấp thông tin cho báo chí về vụ án chiếm đoạt tài sản tại phòng giao dịch Đô Lương - thuộc ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) chi nhánh Nghệ An.

Theo đại tá Thiêm, từ đầu tháng 8-2016 qua công tác nắm tình hình, PC46 Nghệ An xác định có dấu hiệu bất thường về việc chuyển tiền tiết kiệm của khách hàng tại phòng giao dịch huyện Đô Lương - , ngân hàng Eximbankchi nhánh Nghệ An.

Ngày 19-9, với các tài liệu chứng cứ thu thập được, PC46 Nghệ An khởi tố vụ án hình sự “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đối với Nguyễn Thị Lam (29 tuổi, ngụ xóm Yên Hương, xã Yên Sơn, huyện Đô Lương), nguyên cán bộ kiểm ngân phòng giao dịch Đô Lương. Hai ngày sau, Lam đến cơ quan công an đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bước đầu, cơ quan điều tra làm rõ vụ việc, theo đó bằng cách lập hồ sơ “khống” đề nghị khách hàng ký vào hồ sơ và giả mạo chữ ký, Nguyễn Thị Lam đã rút tiền hoặc chuyển khoản trót lọt tiền gửi tiết kiệm của khách hàng gửi tại Eximbank.

Bắt đầu làm việc tại phòng giao dịch Đô Lương từ tháng 3-2011, Lam nhận thu chi tiền mặt, huy động tiền gửi, cho vay theo các chỉ tiêu. Trong quá trình “tiếp thị”, Lam đã chèo kéo các khách hàng gửi tiền bằng cách tự tăng lãi suất tiền gửi.

“Lãi suất ngân hàng chỉ 4,5-5%/năm nhưng Lam thỏa thuận với khách hàng lãi suất từ 7-12%/năm. Từ việc mời gọi khách hàng gửi tiền vào Eximbank thông qua mình, Lam đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của khách hàng bằng các thủ đoạn gian dối như làm hồ sơ khống, giả mạo chữ ký khách hàng; tự viết tay những yêu cầu về nội dung khách hàng cần rút hoặc chuyển bao nhiêu tiền”, đại tá Thiêm thông tin.

Thời gian đầu Lam đều trả lãi suất chênh lệch đầy đủ, đúng hẹn nên các khách hàng thân thiết rất tin tưởng Lam. Thậm chí, nhiều lần Lam rút tiền gửi tiết kiệm của khách hàng nhưng sau đó lại nộp tiền trở lại sổ tiết kiệm tránh sự nghi ngờ của khách hàng.

Đến nay PC46 Nghệ An đã làm rõ Lam đã chiếm đoạt tổng cộng 48 tỉ đồng tiền gửi khách hàng tại phòng giao dịch Đô Lương, trong đó người ít nhất là 350 triệu đồng, người nhiều nhất là 31 tỉ đồng. Sau khi chiếm đoạt tiền, Lam đã dùng để mua đất, xây nhà, mua ôtô và tiêu xài cá nhân.

Mở rộng điều tra, ngày 24-9, PC46 Nghệ An bắt khẩn cấp Đặng Đình Hồng (43 tuổi, ngụ xóm 12, xã Tràng Sơn, huyện Đô Lương) - giám đốc phòng giao dịch Đô Lương để điều tra về hành vi “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Bước đầu, Hồng thừa nhận rất hiểu nguyên tắc rút tiền, chuyển khoản tiết kiệm gửi từ ngân hàng nhưng do nể nang nên đã ký vào các hồ sơ thủ tục của Lam trình là không đúng quy trình với số tiền khoảng 14 tỉ đồng.

Đại tá Thiêm đánh giá, đây là vụ rút tiền gửi tiết kiệm của khách hàng ra khỏi hệ thống ngân hàng lớn nhất ở Nghệ An từ trước đến nay và là một cảnh báo về việc buông lỏng trong quản lý, làm trái nguyên tắc của cán bộ quản lý ngân hàng.

“Việc quản lý tiền gửi tiết kiệm khách hàng tại ngân hàng rất lỏng lẻo. Khi chúng tôi vào cuộc điều tra thì khách hàng mới biết tiền gửi tiết kiệm của mình bị rút ruột, có khách hàng ngất xỉu. Do khách hàng đã gửi tiền vào hệ thống ngân hàng được pháp luật bảo hộ, người bị hại đang giữ sổ tiết kiệm nên việc nắm giữ, quản lý, điều tiết là trách nhiệm của ngân hàng”, đại tá Thiêm nói.

Hiện PC46 Nghệ An đang tiếp tục mở rộng điều tra vụ án, xác định khách thể bị xâm hại để làm rõ hành vi “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” hay “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đối với Nguyễn Thị Lam.

Liên quan đến vụ việc, đại diện Eximbank chi nhánh Nghệ An cho biết đây là một sơ suất đáng tiếc tại phòng giao dịch Đô Lương và chi nhánh sẽ chấn chỉnh việc này để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng trong toàn hệ thống đồng thời khuyến cáo khách hàng thường xuyên kiểm tra sổ tiết kiệm, làm việc với những người có trách nhiệm, không thông qua những nhân viên giao dịch dễ “mắc bẫy” bị lợi dụng; đặc biệt là không ký vào những giấy tờ không có nội dung gì.

Theo Doãn Hòa

Tuổi trẻ

Đọc tiếp »

Thứ Tư, 14 tháng 9, 2016

Đường đi của 670 tỷ đồng từ ACB đến túi Huỳnh Thị Huyền Như

TAND TP Hà Nội cho biết, ngày 23/9 sẽ xét xử vụ án Huỳnh Thị Bảo Ngọc (SN 1972, ở TPHCM), nguyên Phó phòng Quản lý quỹ, Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trước đó, trong phiên tòa xét xử Nguyễn Đức Kiên tức Bầu Kiên năm 2014, TAND Hà Nội đã khởi tố vụ án lừa đảo với Bảo Ngọc ngay.

Theo cáo trạng, năm 2010, Thường trực HĐQT Ngân hàng ACB thống nhất chủ trương ủy thác cho các cá nhân gửi tiền VNĐ và USD tại các tổ chức tín dụng, giao kế toán trưởng tổ chức thực hiện. Tháng 6/2011, ACB phê duyệt hạn mức tín dụng ấn định tại Vietinbank là 1.500 tỷ đồng, thời hạn 6 tháng. Có 19 nhân viên của ACB được ủy thác số tiền trên, trong đó có 17 nhân viên thuộc Phòng Quản lý quỹ, do đó việc giao dịch được giao cho Trưởng phòng Huỳnh Thị Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc tiến hành thăm dò lãi suất tín dụng tiền gửi, đồng thời liên hệ với Huỳnh Thị Huyền Như (SN 1978, quyền Trưởng phòng Giao dịch Điện Biên Phủ, Vietinbank TPHCM) để mang tiền của ACB đi gửi tiết kiệm. Hai người thỏa thuận tiền của ACB sẽ được trả lãi suất 18,8 – 20%/năm. Lãi suất này bao gồm cả lãi suất "ngoài hợp đồng" 4,8 – 6%/năm, trong đó người gửi tiền hưởng 3,8 – 4%/năm, Ngọc hưởng 0,1-1,5%/năm). Ngọc bị cáo buộc không báo cáo lãnh đạo ACB việc Huyền Như trả "lãi suất ngoài hợp đồng" cho mình.

Kết quả, từ ngày 21/7/2011 đến 5/9/2011, Bảo Ngọc chỉ định 17 nhân viên gửi tiền và ký 32 hợp đồng ủy thác gửi tiền với ACB đồng thời ký 32 hợp đồng gửi tiền với Vietinbank TPHCM. Ngân hàng ACB đã chuyển gần 670 tỷ đồng vào tài khoản thanh toán của 17 nhân viên mở tại Phòng giao dịch Điện Biên Phủ, Vietinbank TPHCM.

Nhận được tiền, Huyền Như chuyển hơn 10 tỷ đồng vào tài khoản của nhân viên ACB để trả lãi suất chênh lệch ngoài hợp đồng; chuyển hơn 3,7 tỷ đồng vào tài khoản của Huỳnh Thị Chiêu Uyên (chị gái Bảo Ngọc) theo yêu cầu của Bảo Ngọc. Bà Uyên sau đó đã nộp gần 3,2 tỷ cho cơ quan chức năng.

Đáng chú ý, các hợp đồng giữa 17 nhân viên với Vietinbank đều có quy định "Bên nhận tiền gửi được tự động trích toàn bộ số tiền gửi sang tài khoản tiền gửi kỳ hạn, trả lãi sau". Các chủ tài khoản cũng ký các lệnh chi để chuyển từ tài khoản thanh toán sang tài khoản tiết kiệm. Tuy nhiên, Bảo Ngọc không yêu cầu 17 nhân viên lấy lại sổ tiết kiệm để quản lý. Lợi dụng các điều kiện thông thoáng do Bảo Ngọc tạo ra, Huyền Như chiếm đoạt gần 670 tỷ đồng của ACB. Cụ thể, Huyền Như làm giả 9 lệnh của 6 chủ tài khoản để chuyển gần 122 tỷ đồng sang tài khoản khác. Như còn lập 89 sổ tiết kiệm trị giá hơn 535 tỷ đồng nhưng không giao sổ cho các chủ thẻ. Sau đó, đối tượng giả lệnh chi, chữ ký của các chủ thẻ để thế chấp vay hoặc chuyển sang tài khoản khác rồi chiếm đoạt hơn 535 tỷ đồng.

Huỳnh Thị Huyền Như đã bị tuyên án chung thân năm 2015. Liên quan đến việc ủy thác gửi tiền của ACB, một loạt lãnh đạo cấp cao của ngân hàng này đã bị tuyên phạt về tội cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Trong đó, ông Nguyễn Đức Kiên (Bầu Kiên) lĩnh 18 năm tù, ông Lý Xuân Hải (cựu Tổng giám đốc ACB) lĩnh 8 năm tù. Ba phó chủ tịch HĐQT ACB gồm Lê Vũ Kỳ, Trịnh Kim Quang, Phạm Trung Cang bị phạt từ 3 - 5 năm tù; cựu Phó tổng giám đốc ACB Huỳnh Quang Tuấn nhận 2 năm tù.

Đáng chú ý, các hợp đồng giữa 17 nhân viên với Vietinbank đều có quy định "Bên nhận tiền gửi được tự động trích toàn bộ số tiền gửi sang tài khoản tiền gửi kỳ hạn, trả lãi sau". Các chủ tài khoản cũng ký các lệnh chi để chuyển từ tài khoản thanh toán sang tài khoản tiết kiệm. Tuy nhiên, Bảo Ngọc không yêu cầu 17 nhân viên lấy lại sổ tiết kiệm để quản lý. Lợi dụng các điều kiện thông thoáng do Bảo Ngọc tạo ra, Huyền Như chiếm đoạt gần 670 tỷ đồng của ACB.

Theo Xuân Ẩn

Tiền phong

Đọc tiếp »

Vẫn trông vào tín dụng

Những ngày này hệ thống ngân hàng dư thừa thanh khoản, lãi suất giữ ổn định, dự trữ ngoại hối tăng kỷ lục (hơn 38 tỷ USD).

Ngân hàng Nhà nước điều hành thị trường mở nhịp nhàng, đi kèm với bơm tiền ra mua ngoại hối là sử dụng nghiệp vụ hút tiền về qua phát hành tín phiếu; chưa kể các ngân hàng thương mại đã hoàn thành nhiệm vụ mua trái phiếu - đủ để Chính phủ có thể sử dụng nguồn vốn đó bất cứ lúc nào cho đầu tư công. Đó là mặt trước của tấm huy chương…

Còn phía sau, mổ xẻ cho thấy: Dù nền kinh tế đến thời điểm này hết tháng 8/2016, đã được hệ thống ngân hàng bơm ròng tới hơn 5 triệu tỷ đồng vốn, dù tín dụng rất cố gắng để đến với các lĩnh vực (đến ngày 23/8/2016, tín dụng nền kinh tế tăng 9,09% so với cuối năm 2015) nhưng rõ ràng thực tế, một bộ phận không ít doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn đang mong ngóng và chật vật xoay xở vốn. Rõ nữa là hệ thống ngân hàng vẫn phải "đỏ mắt" tìm khách tốt, rất muốn cho vay ra nhưng đến lúc này cũng ngậm ngùi từ chối lắc đầu.

Theo TS Alan Phạm, việc thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước siết chặt cảnh báo các lĩnh vực cho vay là phù hợp, bởi gánh nặng nợ xấu khiến các ngân hàng đang còn phải căng ra giải quyết. Tuy nhiên, hơn cả với trường hợp doanh nghiệp thực sự khó khăn, để làm thực, khối nhà băng ngoài cơ chế theo quy định, cần tăng thêm trách nhiệm, đó là phải có một đội ngũ nhân viên thẩm định giá trị doanh nghiệp để quyết định có nên cho vay không. Vấn đề nữa là chất lượng nhân viên của ngân hàng, ngoài thẩm định tín dụng, họ cần biết phân tích chất lượng doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp đó.

Cập nhật 7 tháng đầu năm cho thấy, đã có thêm hơn 62 ngàn doanh nghiệp mới được thành lập, đó là một tin vui. Còn tin buồn, trong một thống kê khác chỉ ra trong 6 tháng đầu năm qua, có tới 220 doanh nghiệp chết mỗi ngày. Dẫu số "sinh" cao hơn số "chết" và như biện minh của một lãnh đạo Bộ Kế hoạch Đầu tư, tính tỷ lệ cứ thực dương là được nhưng rõ ràng, không thể phủ nhận nhiều doanh nghiệp Việt chưa thực khỏe và sự sống còn của một nhóm không nhỏ, vẫn đang trông vào tín dụng.

Theo Minh triết

Tiền phong

Đọc tiếp »

Vàng sắp "thổi bay" mốc 36 triệu đồng/lượng

Mở cửa phiên giao dịch sáng hôm nay, giá vàng giảm mạnh từ 110 – 140 nghìn đồng/lượng và hiện một số doanh nghiệp đang mua vào với giá dưới mốc 36 triệu đồng/lượng.

Giá vàng miếng SJC niêm yết tại CTCP Vàng bạc đá quý Phú Nhuận (PNJ) sáng nay tại khu vực Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ ở cùng mức giá 36,00 – 36,20 triệu đồng/lượng, giảm 130 nghìn đồng/lượng so với phiên giao dịch cuối giờ chiều qua.

Tại thị trường Hà Nội, giá vàng miếng SJC đang được niêm yết tại công ty PNJ ở mức giá 36,07 – 36,15 triệu đồng/lượng, giảm 90 nghìn đồng/lượng so với cuối phiên giao dịch chiều hôm qua.

Trong khi đó, Công ty VBĐQ SJC niêm yết giá vàng miếng ở mức 35,94 – 36,22 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra), giảm 140 nghìn mua vào và 110 nghìn bán ra so với cuối phiên giao dịch hôm qua. Tập đoàn VBĐQ DOJI niêm yết ở mức 36,08 – 36,16 triệu đồng/lượng, giảm 130 nghìn đồng/lượng.

Trên thị trường thế giới, giá vàng ngày 13/9 giảm phiên thứ 5 khi USD mạnh lên cũng như bất ổn về việc liệu Fed có nâng lãi suất trong phiên họp tuần tới hay không.

Thị trường chứng khoán toàn cầu và giá năng lượng đều giảm khi đồng bạc xanh tăng 0,5%.

Cuối phiên giao dịch hôm qua, giá vàng giao ngay giảm 0,7% xuống 1.317,47 USD/ounce. Giá vàng giao tháng 12/2016 trên sàn Comex giảm 0,14% xuống 1.323,7 USD/ounce, ghi nhận phiên giảm thứ 5 liên tiếp.

Trên thị trường châu Á, giá vàng hiện đang xoay quanh mức 1.317 ounce. Quy đổi tương đương 35,48 triệu đồng/lượng, như vậy hiện tại vàng trong nươc đang cao hơn thế giới khoảng 740 nghìn đồng/lượng.

Tiến Phương

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Thiếu cơ chế, cho thêm tiền VAMC cũng không dám nhận

Chủ tịch HĐTV VAMC Nguyễn Quốc Hùng đã khẳng định như vậy với phóng viên Thời báo Ngân hàng khi bàn về câu chuyện VAMC có cần thiết phải sử dụng thêm vốn ngân sách để xử lý nợ xấu vào thời điểm này hay không.

Ông có thể cho biết kết quả hoạt động mua bán, xử lý nợ xấu của VAMC từ đầu năm đến nay?

Chủ tịch HĐTV VAMC Nguyễn Quốc Hùng: Tính đến ngày 13/9/2016, VAMC đã mua 421 khoản nợ của 314 khách hàng với số tiền 12.238 tỷ đồng. Bên cạnh mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt (TPĐB), VAMC tổ chức phân loại khách hàng để đánh giá khả năng thu hồi các khoản nợ, từ đó xây dựng phương án xử lý nợ đối với từng khoản.

Nhờ triển khai nhiều giải pháp, với sự phối hợp chặt chẽ giữa VAMC và các TCTD, từ đầu năm đến nay, VAMC thu hồi được 12.520 tỷ đồng.

Để hỗ trợ các TCTD trong giải quyết nợ xấu, Chính phủ đã có chỉ đạo VAMC xem xét trả lại cho các TCTD những khoản nợ mà họ có thể xử lý được. Do đó, đối với những khoản nợ TCTD thấy rằng có thể thu hồi được, VAMC ủy quyền hết. Trong quá trình xử lý nợ, nếu gặp khó khăn vướng mắc VAMC sẽ hỗ trợ. Sau này nếu TCTD thấy có thể tự xử lý được và muốn mua lại khoản nợ đã bán cho VAMC thì VAMC sẵn sàng bán lại bằng đúng nguyên giá.

Muốn xử lý nhanh, triệt để nợ xấu thì phải triển khai mạnh mua bán nợ theo giá thị trường

Còn phần chi phí trích lập dự phòng rủi ro (DPRR) cho các khoản nợ đã bán TCTD cũng được nhận lại đầy đủ. Như vậy, VAMC không lấy lãi đối với bất kỳ khoản nợ nào mua bằng TPĐB. Thực tế, đến thời điểm này VAMC đã bán lại cho TCTD gần 2.000 tỷ đồng nợ xấu nguyên giá. Qua đó có thể thấy, về cơ bản các TCTD được toàn quyền chủ động trong xử lý nợ xấu (XLNX).

Tất nhiên con số trên vẫn chưa như mong muốn của chúng tôi. Bởi như các bạn biết, VAMC đang gặp rất nhiều rào cản trong quá trình XLNX và NHNN đã trình Chính phủ những khó khăn vướng mắc để có hướng xử lý.

Còn kế hoạch mua nợ xấu theo giá thị trường thì sao, thưa ông?

Phải khẳng định mua nợ theo giá thị trường là mục tiêu trọng tâm trọng điểm của VAMC trong năm 2016 và chúng tôi rất muốn triển khai vì hiện VAMC được nâng vốn điều lệ lên 2.000 tỷ đồng. Nhưng quả thực việc đàm phán mua nợ theo giá thị trường lại hết sức khó khăn, đụng đâu cũng thấy vướng.

Ví như, các TCTD bán nợ cho VAMC nhận TPĐB có thời gian trích lập DPRR 5-10 năm. Nếu bán theo giá thịt trường thì họ phải trích ngay ít nhất 80 – 90% khoản nợ đó, thậm chí phải trích hết 100%. Như vậy, liệu TCTD có đủ khả năng tài chính để trích lập?.

Không chỉ đảm bảo về trích lập DPRR đầy đủ, các TCTD xác định bán nợ theo giá thị trường đảm bảo ít nhất bằng giá nợ gốc. TCTD cũng chỉ muốn bán hòa vốn bởi phần thiếu hụt không biết tính toán ra sao, có bị quy trách nhiệm hình sự hóa hay không?. Vì thế, họ tỏ ra e ngại khi bán nợ theo giá thị trường cho VAMC.

Vấn đề nữa đặt ra VAMC mua nợ theo giá thị trường thì phải bán theo giá thị trường. Nhưng muốn bán thì phải có thị trường. Nhưng giờ thị trường chưa có. Mà mua về để quản lý, theo dõi nếu không may thị trường biến động thì lỗ từ TCTD lại chuyển sang VAMC. Mà quan điểm của VAMC tuy kinh doanh không vì mục tiêu lợi nhuận nhưng phải bảo toàn được vốn. Nên chúng tôi cũng hết sức thận trọng, hạn chế tối đa việc bán nợ dưới giá vốn. Cho nên việc VAMC mua nợ và TCTD bán nợ theo giá thị trường bằng giá gốc đang là vấn đề cốt lõi gây khó khăn trong việc mua bán nợ theo giá thị trường.

Do đó, vấn đề ở đây không phải là cần có bao nhiêu tiền mà thực tế VAMC cần có cơ chế với hành lang pháp lý rõ ràng. Muốn mua bán nợ theo giá thị trường phải có phương thức định giá giá trị khoản nợ và cần có một tiêu thức của một cơ quan trung gian như Bộ Tài chính có hướng dẫn về phương pháp định giá, tiêu thức chung để mọi người nhìn vào đánh giá được thực trạng.

Thị trường mua bán nợ phải được vận hành. Đặc biệt, hành lang pháp lý đảm bảo quy rõ trách nhiệm mua bán dưới giá gốc thế nào cũng như trường hợp thoái vốn Nhà nước, dưới giá gốc có vấn đề gì không?. Có cho phép TCTD bù đắp quỹ dự phòng rủi ro vào phần thiếu hụt không?. Phần thiếu hụt trong trích lập DPRR, TCTD có được trích trong nhiều năm để giảm áp lực về tài chính?

Một vấn đề quan trọng nữa đó là cơ chế xử lý tài sản đảm bảo phải thực hiện nghiêm, kiên quyết. Nếu không nghiêm, VAMC mua về không thu hồi được TSĐB, không phát mại mà suốt ngày đi kiện tụng, nợ đọng một chỗ như vậy thì có tiền VAMC cũng không dám mua. Mục tiêu của VAMC là không để đồng vốn ngân sách đọng lại một chỗ được mà phải đảm bảo quay vòng vốn.

Ngay cả đối với người đi vay cũng cần phải có cơ chế pháp lý rõ ràng để làm sao họ hiểu khi không trả được nợ phải bàn giao tài sản cho chủ nợ và phải chấp nhận định giá tài sản đảm bảo theo thị giá. Đó là quy luật của cuộc chơi. NH phải nhận nợ đến đồng cuối cùng thì khách hàng cũng phải trả nợ như vậy. Trừ trường hợp người vay không còn gì nữa mới xem xét miễn, giảm lãi nhưng dứt khoát phải trả gốc.

Người vay phải có trách nhiệm trả nợ đến đồng cuối cùng. Lúc này, nếu dùng tiền ngân sách để XLNX thì mọi người sẽ hiểu là lấy tiền của dân người nghèo chia cho người giàu nhởn nhơ đi xe sang, nhà đẹp. Muốn vậy phải có hành lang pháp lý nghiêm minh đối với người đi vay, thậm chí phải hình sự hóa với con nợ vô trách nhiệm, coi thường pháp luật.

Nhưng đang có đề xuất cần thiết phải bơm thêm tiền tươi thóc thật để VAMC mua nợ xấu theo giá thị trường giải quyết nhanh số nợ xấu tồn đọng?

Đúng là muốn xử lý nhanh, triệt để nợ xấu thì phải triển khai mạnh mua bán nợ theo giá thị trường. Và tiền tươi thóc thật rất quan trọng. Tôi được biết, Bộ Kế hoạch đầu tư xây dựng phương án sử dụng vốn ngân sách để xử lý nợ xấu. Đây là ý tưởng hay nhưng nó ở thì tương lai. Theo tính toán của VAMC từ năm 2018 - 2020 dứt khoát thị trường mua bán nợ sẽ hoạt động sôi nổi. Vì lúc đó TCTD đã trích DPRR tối thiểu 50 - 60% giá trị khoản nợ rồi. Phần còn lại họ phải đẩy để thu hồi đủ giá trị khoản nợ, và có thể lãi khi thị trường hồi phục.

Nếu các kiến nghị VAMC được thông qua hành lang pháp lý thông thoáng điều kiện mua bán nợ sẽ tốt hơn. Khi đó nếu được cấp vốn ngân sách VAMC dùng tiền đó để mua các khoản nợ xấu. Và biến khoản nợ xấu thành khoản tiền thật và có giá trị ít nhất bằng hoặc hơn khoản đã mua. Như vậy dù có được cấp vốn ngân sách để XLNX thì không phải vốn đó mất đi mà thực chất là ứng trước cho VAMC một khoản tiền để mua và bán khoản nợ xấu ra thị trường.

Mặc dù đề án trên là đúng đắn nhưng như phân tích ở trên, nếu không có cơ chế tháo gỡ vướng mắc về hành lang pháp lý thì có cho thêm tiền VAMC không dám nhận. Vì khi mà quyền con nợ vẫn to hơn chủ nợ thì có tiền cũng không thể nào giải quyết được nợ xấu.

Xin cảm ơn ông!

Theo Thanh Huyền thực hiện

Thời báo Ngân hàng

Đọc tiếp »

Công ty Quản lý quỹ Bảo Việt mua vào 3,6 triệu cổ phần STG

Trước giao dịch BVF không sở hữu cổ phiếu STG nào.

Công ty TNHH Quản lý quỹ Bảo Việt (BVF) vừa có báo cáo giao dịch cổ phiếu STG của CTCP Kho vận Miền Nam (Sotrans). Theo đó, ngày 7/9 vừa qua, công ty này đã mua 3,6 triệu cổ phiếu STG tương ứng 4,21% số lượng cổ phiếu có quyền biểu quyết đang lưu hành của Sotrans. Trước giao dịch BVF không sở hữu cổ phiếu STG nào.

Trước đó mấy ngày, ngày 31/8, Tổng công ty Bảo Việt Nhân Thọ (BVLIFE) đã mua vào hơn 6 triệu cổ phiếu STG và trở thành cổ đông lớn của Sotrans. Trước giao dịch BVLIFE cũng không sở hữu cổ phiếu STG nào.

Công ty TNHH Quản lý quỹ Bảo Việt và Tổng công ty Bảo Việt Nhân Thọ đều là công ty con do Tập đoàn Bảo Việt (BVH) sở hữu 100%.

Hiện Sông Đà 909 vẫn đang là cổ đông lớn nhất nắm giữ 24,2% vốn của Sotrans. Tuy nhiên, mới đây, Tổng công ty Thiết bị Điện Việt Nam (Gelex) đang lên kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh sang lĩnh vực logistic và đích nhắm là Sotrans. Gelex dự kiến sẽ bỏ ra khoảng 1.500 tỷ đồng để đầu tư vào lĩnh vực logistic. Đồng thời dự kiến sẽ mua lại cổ phần chi phối CTCP Kho vận Miền Nam.

Thanh Mai

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Lãi suất nhích theo mùa làm ăn cuối năm

Sau một thời gian ngắn ổn định, nhiều ngân hàng đã đồng loạt tăng nhẹ lãi suất huy động khiến nhiều doanh nghiệp lo lắng lãi suất cho vay sẽ tăng theo trong khi đang bước vào cao điểm mùa làm ăn cuối năm.

Nhiều ngân hàng (NH) thừa nhận khó giữ được lãi suất (LS) cho vay ổn định trong những tháng cuối năm, do nhu cầu vay vốn làm ăn tăng, trong khi huy động vốn những tháng đầu năm tăng chậm hơn cho vay.

Đồng loạt tăng lãi suất

Ngân hàng Bản Việt vừa tăng LS tiền gửi, theo đó LS kỳ hạn 6 tháng tăng 0,1%/năm, lên 7,1%/năm, kỳ hạn 13 tháng LS tăng từ 7,5%/năm lên 7,8%/năm. Mức LS huy động kỳ hạn 18 tháng ở mức 8,2%/năm tại NH này cũng được ghi nhận là mức cao nhất thị trường hiện nay.

Trước đó, hàng loạt NH khác cũng tăng LS như VPBank, Eximbank, Nam Á, Hàng Hải... Cụ thể, VPBank tăng 0,2%/năm với LS kỳ hạn từ 1-3 tháng, kỳ hạn 12 tháng tăng 0,1%/năm, lên 6,7%/năm. Còn Eximbank tăng LS kỳ hạn từ 1-12 tháng, với mức tăng 0,1-0,2%/năm.

Có nhiều nguyên nhân khiến LS nhích lên trong thời gian gần đây. Theo giám đốc khối khách hàng cá nhân một NH lớn tại TP.HCM, việc NH Nhà nước đang hút tiền về thông qua việc phát hành tín phiếu với khối lượng khá lớn khiến nguồn tiền trên thị trường trở nên khan hơn.

Thêm vào đó bắt đầu vào cao điểm mùa làm ăn cuối năm, NH phải tăng LS để thu hút vốn nhằm đáp ứng nhu cầu vay của doanh nghiệp (DN).

Chưa kể theo quy định mới của NH Nhà nước, từ năm 2017 các NH thương mại phải giảm tỉ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn từ 60% xuống còn 50%. Trong khi thời gian qua nhiều NH đã sử dụng quá nhiều vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, buộc phải tăng LS huy động để kéo giảm tỉ lệ sử dụng vốn ngắn hạn.

Theo các NH, khi nhu cầu vốn tăng lên những tháng cuối năm, LS cho vay khó có thể giữ nguyên mà sẽ có xu hướng tăng chứ khó có khả năng giảm.

Doanh nghiệp lo ngay ngáy

Vừa trả xong khoản vay 640 triệu đồng cho NH sau thời gian vay 3 tháng, ông M.L., tổng giám đốc Công ty CP may MH (TP.HCM), cho biết ngoài LS, công ty còn phải trả thêm một số phí, phụ phí khác nên cộng lại cũng khá cao so với mặt bằng chung.

“Ngay sau khi có được nguồn trả nợ vay, tôi trả ngay vì nghe đâu sắp tới LS có thể tăng nữa”, ông M.L. tặc lưỡi nói.

Cũng vừa trả xong khoản vay dưới 500 triệu đồng với LS 8%/năm sau khi hoàn tất đơn hàng, ông Đặng Quốc Hùng, giám đốc Công ty TNHH Kim Bôi, lo lắng cho rằng cuối năm sẽ có nhiều đơn hàng, không vay thì không đủ nguồn tiền để xoay vòng được, nhưng nếu LS tăng các DN nhỏ sẽ gặp khó.

“LS cho vay ở mức 7-8% DN mới mạnh dạn vay, chứ nếu cao hơn, chưa kể có thể bị điều chỉnh tăng giữa chừng, ngặt nghèo lắm mới nghĩ đến chuyện vay bởi lợi nhuận không đủ để trả lãi vay”, ông Hùng cho biết.

Ông Phạm Ngọc Hưng, phó chủ tịch Hiệp hội DN TP.HCM, cho biết nhiều DN hội viên cũng bày tỏ lo ngại khả năng NH sẽ tăng LS trong thời gian tới. Theo ông Hưng, với việc NH liên tục tăng LS huy động như thời gian qua, LS cho vay cũng khó lòng giữ mức hiện nay.

“Chúng tôi vẫn thường nghe các DN nhỏ và vừa nói rằng họ rất khó tiếp cận được vốn vay NH, dù đã có nhiều giải pháp, quyết sách được đưa ra. Nhưng với những DN nào vay được, LS trở thành gánh nặng của họ”, ông Hưng nhấn mạnh.

Cũng theo ông Hưng, với các khoản vay trung và dài hạn, rất nhiều DN than phiền các NH đưa ra nhiều mức LS khác nhau cho từng hạn mức vay, chẳng hạn có NH đưa ra gói vay có điều kiện từ năm thứ hai trở đi, DN phải trả lãi vay theo mức LS huy động 12 tháng (ở thời điểm hiện tại) cộng thêm 3%, tính ra DN chịu thiệt thòi rất nhiều nếu muốn đầu tư dài hạn.

Cho vay tăng nhanh hơn huy động vốn

Theo số liệu của NH Nhà nước chi nhánh TP.HCM, dư nợ vay trung dài hạn vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng dư nợ trên địa bàn với hơn 57%, dư nợ ngắn hạn chỉ chiếm 43%. Trong khi đó, huy động vốn từ đầu năm đến nay tăng chậm hơn cho vay.

Cụ thể, tính đến cuối tháng 8-2016, huy động vốn chỉ tăng 7,71% so với cuối năm 2015 trong khi tín dụng tăng 11,24%, mức tăng cao nhất trong vòng ba năm gần đây.

Theo Trần Vũ Nghi - Ánh Hồng

Tuổi trẻ

Đọc tiếp »

Đã đến lúc hạ lãi suất!

Tiền đang dư thừa, các ngân hàng thương mại muốn giải quyết tình trạng thừa thanh khoản thì phải hạ lãi suất để kích cầu tiêu thụ.

Ngân hàng thừa tiền

Vừa qua, thông tin Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) có lượng tiền mặt gần 8.200 tỷ đồng gửi ngân hàng với kỳ hạn không quá 3 tháng, hưởng lãi suất 5,5 -6,2% một năm trong bối cảnh công ty này đầu tư ngoài ngành không hiệu quả nói riêng và tình hình tăng trưởng huy động vốn toàn hệ thống những tháng đầu năm mạnh mẽ nói chung đã chứng tỏ một điều rằng trong bối cảnh khó khăn như hiện nay, hầu như người dân và ngay cả doanh nghiệp có lượng tiền lớn đều đem vào gửi ngân hàng.

Lãi suất liên ngân hàng liên tục phá đáy lịch sử, chứng tỏ thanh khoản hệ thống ngân hàng vẫn đang ở trạng thái khá dồi dào. Ở một diễn biến khác, lãi suất của kênh tín phiếu kỳ hạn 14 ngày được phát hành trong tuần qua cũng đã ở mức rất thấp, 0,5%/năm, gần bằng lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm, điều này cho thấy nhu cầu huy động vốn của các ngân hàng thương mại qua kênh tín phiếu đang ở mức thấp.

Các dấu hiệu trên đều cho thấy thanh khoản hệ thống ngân hàng đang ở trạng thái dư thừa, với nguyên nhân chủ yếu là do NHNN bơm một lượng tiền lớn qua nghiệp vụ mua ngoại tệ từ đầu năm đến nay.

Trong khi đó, tính đến cuối tuần qua, khối lượng huy động TPCP đã đạt 98,96% so với kế hoạch đề ra. Như vậy là áp lực phát hành TPCP không còn lớn, cho thấy khả năng nguồn vốn dư thừa nằm ở các ngân hàng thương mại bị hút về qua kênh này là không cao.

Theo nghiên cứu của CTCK Bảo Việt (BVSC), nếu không có biến động lớn, thanh khoản hệ thống ngân hàng nhiều khả năng vẫn sẽ được duy trì ở trạng thái dồi dào từ nay đến hết năm. Đây là một yếu tố tích cực, hỗ trợ giảm lãi suất huy động, từ đó giúp các ngân hàng có điều kiện tiết giảm lãi suất cho vay cho doanh nghiệp.

Các chuyên gia từ Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia nhận định thanh khoản trên thị trường 1 tiếp tục ổn định, lãi suất huy động và cho vay ở mức thấp. Việc phấn đấu giảm lãi suất cho vay những tháng cuối năm có các yếu tố thuận lợi do thanh khoản liên ngân hàng dồi dào; tỷ lệ tín dụng/huy động là 84,6%, giảm so với mức 85,7% cuối năm 2015; áp lực tăng lãi suất do yếu tố tỷ giá được giảm thiểu do thị trường ngoại hối ổn định, lãi suất TPCP tiếp tục giảm ở các kỳ hạn, cùng với việc TPCP đã đạt hơn 89% kế hoạch năm sẽ giảm áp lực lên lãi suất ngân hàng.

Bao giờ lãi suất sẽ giảm thêm?

Công bố thông tin về tình hình hoạt động tháng 8/2016, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết lãi suất cho vay phổ biến 6%-9%/năm đối với kỳ hạn ngắn và 9%-11%/năm đối với trung và dài hạn. Như vậy, so với nhiều tháng trước, lãi suất cho vay vẫn ổn định.

Trước câu hỏi từ nay đến cuối năm, lãi suất có thể giảm hơn được không, bà Nguyễn Thị Hồng, Phó Thống đốc NHNN cho biết, cơ quan điều hành sẽ cố gắng phấn đấu để giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ các doanh nghiệp.

Bà Hồng cho biết ngay từ đầu năm, nhiều chuyên gia kinh tế cũng như NHNN dự báo lạm phát sẽ tăng trở lại thì việc ổn định mặt bằng lãi suất là nhiệm vụ hết sức khó khăn và thách thức.

Vào thời điểm đầu năm, một số ngân hàng điều chỉnh tăng lãi suất huy động. Với diễn biến này, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, phấn đấu giảm lãi suất cho vay.

Nhìn chung có thời điểm lãi suất tăng, giảm và theo số liệu tổng hợp của NHNN, mặt bằng lãi suất về cơ bản là vẫn ổn định.

NHNN tổ chức các giải pháp đầu tiên ổn định mặt bằng lãi suất huy động, để đặt được mục tiêu này, với vai trò điều tiết, NHNN đưa tiền/hút tiền đảm bảo thanh khoản dư thừa ở mức hợp lý. Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất ở mức phù hợp nhằm ngăn chặn các ngân hàng sẽ không quay ra huy động thị trường 1 để đẩy lãi suất tăng lên.

“Từ nay đến cuối năm, NHNN sẽ sử dụng các công cụ cố gắng ổn định lãi suất thị trường. Thống đốc NHNN cũng đã ban hành các chỉ thị các TCTD tiết giảm các chi phí hoạt động, cân đối nguồn vốn từ đó phấn đấu giảm lãi suất cho vay. Và thực tế, đã có ngân hàng giảm lãi suất cho vay”, Phó thống đốc NHNN khẳng định.

Trong khi đó, tính đến ngày 23/8/2016, tín dụng nền kinh tế tăng 9,09% so với cuối năm 2015 nhưng thực tế ngân hàng vẫn dư tiền mà khách vẫn chạy vòng quanh không tiếp cận được vốn vay.

Lãnh đạo một ngân hàng thương mại cổ phần phía Nam chia sẻ với chúng tôi, tìm kiếm khách hàng tốt để cho vay trong thời buổi cạnh tranh này rất khó khăn, đỏ mắt tìm khách hàng để đẩy nguồn tiền ra sản xuất. Nhóm khách hàng có sức khỏe tài chính ổn định, uy tín thì nhân viên các ngân hàng phải cạnh tranh, chăm sóc khách hàng với lãi suất ưu đãi. Còn nhóm khách hàng kinh doanh không mấy khả quan, không có tài sản thế chấp thì hầu hết các ngân hàng e ngại, sợ rủi ro, nợ xấu.

Còn theo một chuyên gia trong ngành dự báo, những tháng còn lại của năm 2016, người đi vay lớn nhất sắp ngừng vay (Kho bạc Nhà nước không bán trái phiếu); Nhu cầu tiêu dùng (nhu cầu hàng hóa bán lẻ) sụt giảm; Cầu tín dụng vẫn thấp dù so với mọi năm đây là thời điểm gia tăng sản xuất để phục vụ các dịp lễ tết sắp đến ...), các ngân hàng thương mại muốn giải quyết tình trạng dư thừa thanh khoản thì phải hạ lãi suất để kích cầu tiêu thụ.

Kim Tiền

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

NHNN chấp thuận nguyên tắc Vinaconex Viettel sáp nhập vào ngân hàng SHB

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa chính thức chấp thuận về nguyên tắc sáp nhập Công ty tài chính cổ phần Vinaconex Viettel (VVF) vào Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB). Vốn điều lệ của SHB sẽ tăng lên thành hơn 10.485 tỉ đồng sau khi thực hiện sáp nhập.

NHNN vừa có công văn chấp thuận về nguyên tắc VVF sáp nhập vào ngân hàng TMCP Sài Gòn (SHB) theo đề án đã được Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) của SHB và VVF thông qua, và thành lập công ty con là công ty tài chính tín dụng tiêu dùng.

SHB và VVF có trách nhiệm hoàn tất hồ sơ theo quy định về việc tổ chức lại tổ chức tín dụng và văn bản khác có liên quan, trình Thống đốc NHNN xem xét chấp thuận việc sáp nhập VVF và SHB.

Đối với việc thành lập công ty con là công ty tài chính tín dụng tiêu dùng của SHB, NHNN chấp thuận về nguyên tắc việc thành lập công ty này. Đồng thời NHNN chỉ đạo SHB và ban trù bị phải thành lập Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Hà Nội, có trách nhiệm thực hiện thủ tục tiếp theo đề nghị NHNN chấp thuận thành lập công ty tài chính hoạt động trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng theo đúng quy định.

Được biết, Công ty tài chính cổ phần Vinaconex Viettel (VFF) có vốn điều lệ 1.000 tỉ đồng, còn ngân hàng SHB có vốn điều lệ hơn 9.485 tỉ đồng.

Như vậy, sau khi tiến hành sáp nhập, vốn điều lệ của SHB sẽ tăng lên 10.485 tỉ đồng.

Mai Ngọc

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Hoãn phiên tòa xử 'sếp' ngân hàng gây thiệt hại hơn 600 tỷ đồng

Do luật sư vắng mặt, đại diện VKS và bị cáo Phạm Văn Cử đề nghị HĐXX cho hoãn phiên tòa và được chấp thuận.

Sáng nay (14/9), TAND cấp cao tại TP.HCM đã mở phiên tòa phúc thẩm vụ án "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", "Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng" xảy ra tại Ngân hàng Agribank chi nhánh 7 (Agribank CN7 – quận 7, TP.HCM). Đây là vụ việc đã gây thiệt hại hơn 600 tỉ đồng cho Nhà nước.

Trước đó, tại phiên sơ thẩm vào ngày 21/12/2015, TAND TP.HCM tuyên phạt Phạm Văn Cử (54 tuổi, ngụ quận 7, nguyên Giám đốc Agribank CN7 20 năm tù; Kiều Đình Thọ (35 tuổi, ngụ quận 1, TP.HCM, nguyên Trưởng phòng kế hoạch kinh doanh) 16 năm tù; Đỗ Thị Thu Hà (41 tuổi, ngụ quận 7, TP.HCM, nguyên Phó trưởng phòng kế hoạch kinh doanh) 9 năm tù cùng về tội "Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng".

Bị cáo Phạm Trịnh Thắng (44 tuổi, ngụ quận 7, Chủ tịch hội đồng thành viên Cty TNHH thương mại Mai Khôi) bị tuyên án chung thân; Dương Thị Kim Luyến (vợ Thắng, 43 tuổi, ngụ Q.7, nguyên Giám đốc Cty Mai Khôi) 20 năm tù. Bốn bị cáo còn lại tham gia với vai trò giúp sức nhận mức án từ 7 năm - 12 năm tù vì tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

Theo bản án sơ thẩm, từ năm 2009 – 2011, ông Phạm Văn Cử chỉ đạo cấp dưới tiếp nhận hồ sơ, ký hợp đồng tín dụng vay vốn với Cty Mai Khôi khi hồ sơ chưa đảm bảo đúng quy định; thẩm định không đúng thực tế tình hình hoạt động kinh doanh, năng lực tài chính; nhận tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất không đúng quy định…

Cty Mai Khôi sử dụng vốn vay từ Agribank CN7 sai mục đích, gây nợ xấu cho Agribank CN 7 với số tiền gốc và lãi hơn 600 tỷ đồng.

Sau bản án sơ thẩm, tất cả các bị cáo đều kháng cáo.

Tại phiên tòa sáng nay, một luật sư của bị cáo Pham Văn Cử vắng mặt. Bị cáo và đại diện VKS để nghị HĐXX cho hoãn phiên tòa.

Sau khi hội ý, HĐXX đã quyết định hoãn phiên tòa với lý do bị cáo Cử là đầu vụ, có kháng cáo kêu oan nếu thiếu vắng luật sư là thiệt thòi quyền lợi cho bị cáo.

Theo Tân Châu

Tiền phong

Đọc tiếp »

TS. Nguyễn Đức Kiên: “Chưa đến lúc Nhà nước can thiệp vào thị trường nợ xấu”

Mới đây, nổi lên những tranh cãi trái chiều về việc có nên dùng Ngân sách để xử lý nợ xấu hay không? Trả lời về vấn đề này, TS. Nguyễn Đức Kiên – Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nhận định: “Chưa đến lúc Nhà nước can thiệp vào thị trường nợ xấu".

Nợ xấu vẫn đang là vấn đề nhức nhối của ngành ngân hàng hiện nay. Nó là nguyên nhân chính cản trở lãi suất tín dụng giảm, giảm phần lớn lợi nhuận của ngân hàng. Đó là lý do tại sao, nhiều phương án được đưa ra nhằm giải quyết “cục máu đông” này của nền kinh tế.

Phương án dùng thêm ngân sách để xử lý nợ xấu được cho như một hình thức để Nhà nước can thiệp vào thị trường nợ xấu. Nó là phương án khả thi nhất hiện nay giúp các ngân hàng xử lý số “tài sản độc hại” khiến cơ thể sinh bệnh.

Tuy nhiên, nếu nhìn một cách khách quan thì nợ xấu phát sinh từ ngân hàng, mà nguyên nhân chính là do tăng trưởng tín dụng quá đà, năng lực thẩm định vốn kém. Vậy tại sao lại dùng ngân sách, tiền của dân để xử lý nợ xấu?

Trả lời câu hỏi về vấn đề sử dụng ngân sách để xử lý nợ xấu ngân hàng, TS. Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho biết: Xử lý nợ xấu là cả một quá trình, đòi hỏi nền kinh tế phải có sự tổn thất nhất định. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng trước khi Nhà nước bỏ vốn thì thị trường cần tự điều chỉnh.

"Khi thị trường không tự điều chỉnh được mới cần nhà nước can thiệp. Còn hiện nay, thị trường còn chưa điều chỉnh, thì tại sao bảo Nhà nước can thiệp? Chưa đến lúc Nhà nước can thiệp vào thị trường nợ xấu", ông Kiên nhận định.

Theo ông Kiên, thị trường điều chỉnh là phải cho phá sản những doanh nghiệp yếu kém, làm ăn không hiệu quả. Ngân hàng cho vay vào lĩnh vực rủi ro, sai phạm thì ngân hàng phải chịu và doanh nghiệp rủi ro thì phải chịu. Lúc đó, ngân hàng phải siết nợ doanh nghiệp. Sau khi siết nợ xong, ngân hàng cân đối trên bảng thu chi mà còn thiếu bao nhiêu thì hình thành nợ xấu, phải trích lập dự phòng.

Trong trường hợp này, nếu các ngân hàng không trích lập dự phòng thì sẽ không tăng được mức tín dụng để huy động. Lúc đó ngân hàng buộc phải giảm lợi nhuận, tài sản để xử lý nợ xấu. Các cổ đông phải chấp nhận lợi nhuận về bằng 0, thậm chí có 2 – 3 năm phải âm lợi nhuận, giảm tài sản. Đó là việc của các ngân hàng.

Ông Kiên phân tích: Khi đó, thị trường có thiếu thì Nhà nước sẽ thông qua 4 ngân hàng nhà nước để bơm tiền ra nhằm cân đối lại nhu cầu tín dụng của thị trường. Đó mới là lúc, Nhà nước can thiệp vào thị trường. Và nếu ngay cả 4 NHTM nhà nước không làm được thì Nhà nước sẽ thông qua VAMC để xử lý nợ xấu.

“Trong lúc đó, chúng ta phải đảm bảo NHTM nhà nước cũng là một doanh nghiệp kinh doanh, nguyên tắc của nó là không được mất vốn, phải có lợi khi tham gia thị trường đấy, nó phải đạt được lợi nhuận ít nhất là bằng với lợi nhuận kinh doanh bình thường thì cổ đông nước ngoài mới mua cổ phần ngân hàng. Và khi họ mua cổ phần rồi thì họ phải quyết dịnh chứ sao nhà nước lại phải quyết định”, ông Kiên khẳng định.

Đặt vấn đề “phá sản ngân hàng” khi ngân hàng không còn đủ năng lực, âm vốn, ông Kiên cho biết: “Chúng ta không để ngân hàng phá sản nên mới mua lại với giá 0 đồng. Như ngân hàng xây dựng là vốn đang âm 9.000 tỷ đồng và Nhà nước mua bằng 0 có nghĩa là Nhà nước phải bỏ thêm tiền để cho nó cân bằng”.

Cùng với đó Nhà nước cũng hỗ trợ bằng thủ tục, bằng ban hành các quy định đặc biệt. Ví như: Ngân hàng Xây dựng khi đã âm vốn thì không được vay trên thị trường 2. Nhưng trường hợp nhà nước là chủ sở hữu thì Nhà nước quy định ngân hàng này vẫn được tham gia vào thị trường 2 mua bán bình thường trong giới hạn quy định để đảm bảo tính thanh khoản của ngân hàng. Để dòng tiền của người gửi tiền phát hành tín dụng khi được tạo ra không tạo sự bất ổn của thị trường tiền tệ.

Ông Kiên cho biết: Hiện nợ xấu chúng ta đang để cho các ngân hàng tự xử lý và tự đề ra phương án xử lý. Chính phủ chỉ đảm bảo thị trường tài chính không bị vỡ, giữ ổn định để ngân hàng hoạt động. Trong thời hạn 5 năm nếu ngân hàng bán nợ xấu cho VAMC thì phải trích lập dự phòng rủi ro, để sau 5 năm xoá được cái nợ đấy. Đấy là sự hỗ trợ rất lớn của Nhà nước cho các ngân hàng thương mại.

Sau 5 năm, nếu ngân hàng không khắc phục được thì buộc Nhà nước phải vào cuộc. Và việc đầu tiên là mua nợ xấu theo giá thị trường, qua định giá của kiểm toán quốc tế. Họ định giá là bao nhiêu nếu định giá âm thì ngân hàng sau 5 năm phải bù vào chỗ tiền âm kia.

Sau 3 lần đại hội đồng cổ đông mà ngân hàng không bù được chỗ lỗ kia thì lúc ấy ngân hàng buộc phải tuyên bố phá sản, hoặc là để bị mua lại với giá 0 đồng.

Phân tích thêm, ông Kiên cho biết: “Lợi nhuận cùng với rủi ro của ngân hàng phải nhà đầu tư nước ngoài mới định giá được. Ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh đặc biệt, không phải cứ bán xong, trao tay là xong. Nó như bán cây cảnh, bán xong đang ở chậu này tươi tốt nhưng chuyển sang chậu khác chắc gì đã tốt, đã sống. Cho nên bao giờ cũng có rủi ro, ràng buộc”.

Theo Nguyễn Thoan

Bizlive

Đọc tiếp »

Chủ tịch Quốc hội: “Nợ xấu dưới 3% là chưa chính xác”

Báo cáo nợ xấu của các tổ chức dưới 3% là chưa chính xác, vì nó vẫn treo ở VAMC, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân khẳng định.

Chiều 14/9 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến một số vấn đề lớn về dự án Luật Đấu giá tài sản.

Đây là dự án luật đã được Quốc hội khoá 13 thảo luận. Tại các phiên thảo luận về dự án luật này, một số ý kiến đề nghị quy định một chương về đấu giá nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, trong đó quy định đầy đủ nguyên tắc, trình tự, thủ tục xử lý nợ xấu nhằm bảo đảm tính minh bạch.

Cũng có ý kiến đề nghị giao Chính phủ quy định về đấu giá nợ xấu vì cho rằng việc quy định cụ thể ngay trong luật là không phù hợp, không đảm bảo sự linh hoạt.

Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, tiếp thu ý kiến đại biểu, nội dung về đấu giá nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được quy định mang tính nguyên tắc tại một số điều, khoản trong luật và giao Chính phủ hướng dẫn về trình tự, thủ tục đấu giá đối với loại tài sản này.

Quy định như vậy nhằm tạo điều kiện cho việc đấu giá nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu mà Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) sử dụng nguồn tiền có nguồn gốc ngân sách để mua được thực hiện theo trình tự, thủ tục thuận lợi, phù hợp với tình hình thực tiễn xử lý nợ xấu nhưng vẫn phải tuân thủ các nguyên tắc, quy định của Luật Đấu giá tài sản.

Theo đó, dự thảo luật đã bổ sung quy định tài sản đấu giá là khoản nợ xấu, và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu mà VAMC đã mua là thuộc tài sản đấu giá, khi VAMC lựa chọn bán thông qua đấu giá.

Dự thảo luật cũng đã quy việc xác định giá khởi điểm của tài sản là khoản nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu mà VAMC đã mua phải được xác định theo quy định của pháp luật áp dụng đối với loại tài sản đó.

Điều 54 của dự thảo luật quy định VAMC được tự đấu giá hoặc ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản với tổ chức đấu giá tài sản, trong trường hợp VAMC tự đấu giá thì vẫn phải bảo đảm các nguyên tắc được nêu tại luật này. Trong đó có nguyên tắc cuộc đấu giá phải do đấu giá viên điều hành.

Các quy định liên quan đến đấu giá viên hành nghề tại VAMC các hành vi nghiêm cấm và xử lý vi phạm đối với VAMC cũng đã được bổ sung.

Dự thảo luật quy định giao Chính phủ hướng dẫn về trình tự, thủ tục đấu giá nợ xấu và tải sản bảo đảm của khoản nợ xấu mà VAMC đã mua, Chủ nhiệm Thanh cho biết.

Băn khoăn về tính minh bạch của quy định tại phần này, Chủ tịch Quốc hội nói, nợ xấu của các tổ chức tín dụng mà VAMC mua thực ra là hạch toán hết chứ không có tiền mà mua.

"Báo cáo nợ xấu dưới 3% là chưa chính xác, vì nó treo ở đây, chưa bán được, trong khi đó dự thảo luật lại giao cho VAMC tự đấu giá thì không đảm bảo minh bạch, không rõ ràng", Chủ tịch nhấn mạnh.

Theo Chủ tịch Quốc hội, cần nghiên cứu thêm, chứ không nên trao cho VAMC - một cơ quan mới thành lập - một đặc ân được luật hoá như vậy.

Phân tích của Chủ tịch được một số vị khác đồng tình.

Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Hà Ngọc Chiến lập luận, VAMC là mô hình mới, tính hiệu quả còn nhiều ý kiến khác nhau nên cần cân nhắc khi quy định cơ quan này có quyền lựa chọn được tự đấu giá hoặc ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản với tổ chức đấu giá tài sản.

Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính - Ngân sách Nguyễn Đức Hải cũng đề nghị không nên quy định về quyền đấu giá của VAMC.

VAMC được ra đời bởi một nghị định, nếu quy định như dự thảo luật thì vô hình chung đã luật hoá mô hình này, trong khi chưa có tổng kết, đánh giá tác động, Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp Lê Thị Nga góp ý.

Theo Nguyễn Lê

VnEconomy

Đọc tiếp »

Lãi suất cho vay khó giảm như kỳ vọng của các doanh nghiệp

Trong mấy ngày gần đây, một số ngân hàng thương mại cổ phần đã tăng lãi suất huy động kỳ hạn dài, điều này dấy lên lo ngại lãi suất cho vay khó có thể giảm được theo lời kêu gọi của Chính phủ và của Ngân hàng Nhà nước.

Để tìm hiểu nguyên nhân của câu chuyện này, phóng viên đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng.

- Ông lý giải nguyên nhân vì sao thời điểm này thanh khoản của các ngân hàng tốt nhưng gần đây một số ngân hàng lại tăng lãi suất các kỳ hạn dài?

Ông Nguyễn Trí Hiếu: Hiện đang có hai thị trường, thị trường 1 là thị trường ngân hàng hấp thụ vốn từ dân cư vào các tổ chức kinh tế, cho vay tiêu dùng. Thị trường 2 là thị trường của các ngân hàng làm việc với nhau gọi là thị trường liên ngân hàng chủ yếu cho vay từ qua đêm đến ba tháng.

Hiện tại thanh khoản của thị trường 2 đang rất tốt, lãi suất rất thấp, thế nhưng vốn ở thị trường này chỉ sử dụng cho hệ thống liên ngân hàng. Trước đây các ngân hàng có thể dùng vốn này để cho vay trên thị trường 1 nhưng giờ các ngân hàng không còn làm được việc đó, thứ nhất là họ không được phép làm, thứ hai là rất rủi ro vì thị trường liên ngân hàng vốn rất ngắn, trong khi thị trường 1 là thị trường cho vay có thể từ ngắn đến trung và dài hạn.

Theo tôi, trên thị trường 1 dòng vốn không được lưu chuyển, không có tính thanh khoản như thị trường 2. Tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng đến thời điểm này đã đạt gần 10%, từ nay đến cuối năm mục tiêu tăng trưởng của Ngân hàng Nhà nước là từ 18-20%, nên nhu cầu vốn rất cao. Chính vì thế các ngân hàng tăng lãi suất lên để thu hút vốn huy động, để có thể tài trợ cho hoạt động tín dụng của nền kinh tế.

Như tôi đã nói không thể lấy dòng vốn từ thị trường 2 để cung cấp cho thị trường 1 vì hai thị trường này cần phải có sự tách biệt với nhau. Chính vì thế ở trên thị trường 1 các ngân hàng nếu thiếu vốn thì chỉ còn cách là tăng lãi suất để huy động vốn trong dân cư.

Bên cạnh đó, bắt đầu từ đầu năm 2017, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn sẽ được kéo xuống từ 60% như hiện nay xuống 50% và đến đầu năm 2018 tỷ lệ đó xuống còn 40%. Có nghĩa là dòng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn càng ngày càng bị thu hẹp. Chính vì thế nhiều ngân hàng không những tăng lãi suất huy động ngắn hạn mà còn tăng ở những kỳ hạn dài chủ yếu từ kỳ hạn 13 tháng trở lên để đáp ứng được tỷ lệ 50%-40% như Ngân hàng Nhà nước đã quy định.

Thêm một lý do nữa, nợ xấu cũng là vấn đề cản trở trong kinh doanh của ngân hàng. Nếu một phần vốn cho vay ra mà không quay trở lại nữa thì ngân hàng phải huy động một nguồn vốn lớn để trả cho khách hàng những món nợ cũ. Chính vì vậy, cách nhanh nhất là phải tăng lãi suất huy động lên làm cho hấp dẫn đồng tiền mới để trả cho dòng tiền cũ mà nó không quay trở lại với ngân hàng.

Tất cả những yếu tố này tạo ra áp lực lên các ngân hàng cần phải tăng vốn, tăng lãi suất để huy động vốn để mà tài trợ cho những tín dụng sắp tới.

- Như vậy, điều này sẽ tác động thế nào đến các doanh nghiệp hiện nay?

Ông Nguyễn Trí Hiếu: Tác động rất lớn đến các doanh nghiệp vì lãi suất huy động có xu hướng tăng như thế, mặc dù các ngân hàng rất muốn thực hiện chủ trương của Chính phủ là giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ các doanh nghiệp. Thế nhưng trong tình trạng chi phí vốn tăng lên, nếu họ không tăng lãi suất cho vay lên thì có nghĩa là biên độ lợi nhuận (NIM) của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng. Vì hiện tại NIM của các ngân hàng đã rất thấp chỉ khoảng 2%, nếu giờ mà còn thấp hơn nữa thì tôi nghĩ các ngân hàng sẽ bị lỗ.

Chính vì vậy việc giảm lãi suất cho vay rất khó, việc này đang tác động rất nhiều đến các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp lớn chứ không chỉ doanh nghiệp vừa và nhỏ.

- Như vậy xu hướng giảm lãi suất cho vay theo lời kêu gọi của Chính phủ sẽ khó thực hiện?

Ông Nguyễn Trí Hiếu: Tôi nghĩ rằng khó thực hiện, mặc dù Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng cũng đang có những biện pháp cần thiết để có thể giảm chi phí vốn xuống cho các ngân hàng. Thực tế, các ngân hàng vẫn phải tăng lãi suất đầu vào thì lãi suất đầu ra khó có thể xuống được. Tất cả đều mong muốn thực hiện chủ trương của Chính phủ nhưng thực sự là rất khó khăn.

- Nhận định của ông về xu hướng lãi suất thị trường từ nay đến cuối năm?

Ông Nguyễn Trí Hiếu: Lãi suất huy động có lẽ khó có thể giảm, từ nay đến cuối năm càng ngày các ngân hàng càng cần vốn huy động hơn. Tuy nhiên lãi suất huy động tăng bao nhiêu thì rất khó có thể dự đoán được tại thời điểm này. Nhưng tôi nghĩ có khả năng tăng từ 0,5% trở lên.

Nếu lãi suất huy động tăng lên như thế thì tôi nghĩ lãi suất cho vay khó có thể duy trì được ở mức hiện tại chưa nói là có thể giảm. Tôi nghĩ rằng lãi suất cho vay có khả năng sẽ tăng nhưng mức tăng thấp hơn mức tăng của lãi suất huy động và có thể sẽ tăng bình quân khoảng 0,25%./.

- Xin trân trọng cảm ơn ông!

Theo Thúy Hà

Vietnam+

Đọc tiếp »

Vietcombank từ chối mở thẻ ATM cho người câm điếc bẩm sinh?

Vietcombank từ chối mở thẻ ATM cho 4 trường hợp câm điếc bẩm sinh tại Hà Nội vì cho rằng họ không đủ năng lực hành vi dân sự và theo quy định của Ngân hàng Nhà nước thì không được phép.

Sáng 14/9, anh Phạm Việt Hoài - Chủ tịch HĐQT Công ty CP Kym Việt (đơn vị hoạt động theo mô hình doanh nghiệp xã hội nơi có nhiều người khuyết tật sản xuất thú nhồi bông) đến chi nhánh Vietcombank Thành Công (Hà Nội) đăng ký làm thẻ ATM cho 4 nhân viên của công ty. Anh Hoài mang đủ hồ sơ và có trình bày về tình trạng của 4 nhân viên đó là bị câm điếc bẩm sinh.

Sau khi trao đổi, phía Vietcombank từ chối việc mở thẻ ATM vì cho rằng 4 người đăng ký không đủ năng lực hành vi dân sự nên từ chối cấp thẻ. Đại diện Vietcombank cho biết đó là quy định của Ngân hàng Nhà nước. Sau đó, anh Hoài đành ra về.

Trao đổi với chúng tôi tối 14/9, anh Phạm Việt Hoài cho biết, việc quyết định như vậy là không công bằng và cản trở quyền tiếp cận dịch vụ ngân hàng thông thường của những người vốn đã thiệt thòi (anh Hoài cũng là một người khuyết tật). 4 nhân viên bị câm điếc bẩm sinh mà anh Hoài mang hồ sơ hộ đến Vietcombank là người tỉnh xa và các nhân viên này cũng là người điền thông tin vào bản khai. "Việc có thẻ ATM sẽ giúp các bạn đỡ phải giữ tiền mặt, tránh các sự cố đáng tiếc, và có thêm chút lãi" - anh Hoài cho biết.

Chúng tôi đã liên hệ với Vietcombank về vụ việc này nhưng một đại diện ngân hàng cho biết cần xác minh lại mới có câu trả lời.

Thế nào là người có “năng lực hành vi dân sự đầy đủ”?

Người "có năng lực hành vi dân sự đầy đủ" là người có khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.

Tất cả mọi người “thành niên” (tức người từ đủ 18 tuổi trở lên) đều có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ những “thành niên” sau đây không được coi là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ:

- Người bị tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình và được tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.

- Người nghiện ma tuý hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình và toà án ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

(Theo công ty Tư vấn Luật Doanh nghiệp Việt Nam)

Tùng Lâm

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »