Thứ Năm, 1 tháng 6, 2017

Có nên học tập Hàn Quốc, dân góp tiền xử lý nợ xấu?

Theo chuyên gia kinh tế Bùi Trinh, nhiều quốc gia lấy tiền ngân sách xử lý nợ xấu thì đấy là việc của họ vì họ khác Việt Nam.

"Cơ chế gì cũng được, nhưng không được hỗ trợ trực tiếp giải quyết nợ xấu bằng tiền trực tiếp từ ngân sách."; "Không được dùng ngân sách xử lý nợ xấu. Đây là nguyên tắc cần được ghi rõ trong nghị quyết.”; "Dứt khoát không lấy ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu. Kể cả chính phủ bảo lãnh cũng không dùng ngân sách. Vậy phải đưa vào Điều 3 là nguyên tắc không dùng ngân sách để xử lý nợ xấu",...

Đây là những ý kiến đóng góp của các đại biểu Quốc hội trong phiên thảo luận góp ý Nghị quyết xử lý nợ xấu. Đa số các đại biểu Quốc hội đều ủng hộ việc ban hành một Nghị quyết xử lý nợ xấu ở thời điểm hiện nay là rất cần thiết, thậm chí có ý kiến còn đánh giá là quá chậm so với nhu cầu thực tiễn. Và đáng chú ý, hầu hết các đại biểu cùng nêu quan điểm không dùng ngân sách để xử lý nợ xấu.

Trong khi đó, có ý kiến cho rằng ở Hàn Quốc, người dân góp tiền để xử lý nợ xấu, chúng ta có nên học tập bài học kinh nghiệm này không? Trao đổi thêm với chúng tôi về vấn đề này, chuyên gia kinh tế - TS. Bùi Trinh cho biết ở Việt Nam nợ xấu đi lòng vòng, nếu lấy tiền ngân sách để xử lý nợ xấu là không nên.

Theo vị chuyên gia này, nhiều nước người dân góp tiền để xử lý nợ xấu thì đấy là việc của các nước đó rất khác Việt Nam. Ở Việt Nam không thể áp dụng điều này. Ví dụ, ở Hàn Quốc, mọi thứ đều minh bạch khi biết ai nợ và nợ ai?

TS. Bùi Trinh nhấn mạnh đề xuất dùng ngân sách để xử lý nợ xấu là điều vô lý. Những đại gia sử dụng tiền nợ mua nhà, mua xe,... tại sao lại bắt người dân trả nợ cho những ông này?

Tại Việt Nam, việc nợ xấu đi lòng vòng đó còn là chưa kể hiện việc định giá tài sản còn nhiều bất cập. Khi tài sản thực sự không như vậy thì cái ai dám mua cái nợ xấu đã được thổi phồng qua giá trị tài sản.

Trong khi đó, tất cả đều cho rằng giải quyết nợ xấu để giảm lãi suất 1% trong khi giá điện, giá xăng,... tăng thì cũng không giúp chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp giảm. Ngoài ra, cần phải xử lý nghiêm minh cá nhân, tổ chức gây nên nợ xấu chứ không để người dân gánh chịu. Người bổ nhiệm cá nhân gây nên nợ xấu cũng cần xử lý.

Vị chuyên gia đồng thời đặt câu hỏi về việc nếu bán nợ xấu dưới giá trị sổ sách, ai chịu phần chênh lệch hay lại là người dân phải chịu?

Mai Ngọc

Theo Thời đại

Đọc tiếp »

Chuyện ở Maritime Bank: Khó xử lý khi khách hàng nợ quá hạn không hợp tác

Không chỉ là khách hàng chây ỳ không hợp tác mà những tài sản đảm bảo vì để quá lâu xuống cấp nghiêm trọng, đến khi đòi được thì giá trị tài sản chẳng còn bao nhiêu, khiến ngân hàng phải gia tăng nguồn dự phòng rủi ro để bù đắp.

Vấn đề xử lý nợ xấu đang được cả xã hội quan tâm vì nợ xấu là tảng băng ngăn chặn dòng chảy tín dụng của nền kinh tế. Theo số liệu mới được cập nhật tại kỳ họp Quốc hội lần này, tính đến 31/12/2016, tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ xấu đã bán cho VAMC chưa xử lý của toàn hệ thống các TCTD chiếm 5,8% trên tổng dư nợ cho vay, đầu tư đối với nền kinh tế; nếu tính cả nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu thì tỷ lệ này sẽ là 10,08% trên tổng dư nợ cho vay, đầu tư đối với nền kinh tế.

Như vậy, với con số hơn 5,5 triệu tỷ đồng, tổng số nợ xấu của hệ thống hiện là hơn 550 nghìn tỷ.

Đánh giá về bức tranh nợ xấu của hệ thống ngân hàng hiện nay, theo ông Nguyễn Hoàng An, Phó Tổng giám đốc Maritime Bank, Tổng Giám đốc Ngân hàng Quản lý tín dụng của Maritime Bank, bất cứ nước nào trải qua giai đoạn khủng hoảng của nền kinh tế đều gặp phải tình trạng nợ xấu chiếm tỷ trọng lớn trong vốn tín dụng. Nợ quá hạn cao làm một khối lượng lớn vốn, tài sản của xã hội (nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân...) nằm đọng không sinh lời dưới dạng nợ xấu (dự án dở dang, nhà xưởng máy móc thiết bị dở dang, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị xây dựng, hàng hoá, hàng hoá tồn kho luân chuyển... ).

Không những không sinh lời mà những tài sản thế chấp này ngày càng xuống cấp và giảm giá nghiêm trọng nếu không được xử lý kịp thời, gây tổn thất lớn cho xã hội. Nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Namvẫn đang ở mức cao, chính vì vậy rất cần sự tiếp sức của toàn xã hội trong vấn đề xử lý nợ xấu.

Như ở Maritime Bank, theo ông An, xác định xử lý nợ xấu là nhiệm vụ trọng tâm và cấp bách, chính vì vậy cách đây hơn 2 năm ngân hàng đã thành lập hẳn một đơn vị chuyên bịêt tập trung xử lý nợ xấu. Kết quả đạt được cũng tương đối tốt, tuy nhiên vẫn còn chậm do cũng gặp phải các khó khăn như khách hàng nợ quá hạn chây ỳ, không hợp tác, TCTD không thực hiện được quyền chủ nợ là thu giữ tài sản bán phát mại. Thời gian xử lý một khoản nợ qua các cơ quan pháp luật quá lâu, khi xử lý được thì tài sản đã xuống cấp nghiêm trọng, thu hồi không đủ nợ nên phải trích lập dự phòng lớn, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và bảo toàn vốn của các ngân hàng.

Ông An cho rằng việc Chính phủ đề xuất lên Quốc hội nghị quyết xử lý nợ xấu là quyết định đúng đắn, mang tính chất bước ngoặt giúp hệ thống ngân hàng Viêt Nam xử lý nợ xấu nhanh và hiệu quả.

Vì theo ông, ở các nước ở khu vực châu Á như Hàn quốc, Thái Lan, Malaysia ... trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế 1996-2000 cũng áp dụng hình thức trao quyền chủ nợ cho các TCTD, mua bán nợ theo giá thị trường và bán nợ cho nước ngoài... Chính vì vậy họ xử lý rất nhanh nợ xấu, giúp các TCTD cũng như chính doanh nghiệp thoát khỏi khó khăn, nhanh chóng phục hồi nền kinh tế đất nước.

Hơn nữa, việc mua bán theo giá thị trường giúp các TCTD và nhất là các TCTD, doanh nghiệp (có vốn nhà nước) dám quyết định việc mua bán với giá thị trường kể cả trong trừơng hợp không thu hồi đủ nợ gốc.

Bên cạnh đó, việc cho các cá nhân, tổ chức kể cả nước ngoài tham gia mua bán nợ, mua bán tài sản bảo đảm chính là việc huy động mọi nguồn lực xã hội và đầu tư nước ngoài vào công tác xử lý nợ xấu, giúp đẩy nhanh công tác xử lý nợ xấu.

Việc đưa vào luật cho phép TCTD được chủ động thu hồi tài sản bảo đảm để xử lý nợ xấu cũng giúp chính người đi vay phải có trách nhiệm và cân nhắc kỹ càng trước khi vay và sử dụng vốn vay có hiêu quả. Những người đứng ra dùng tài sản của mình bảo lãnh cho người khác vay cũng phải hết sức thận trọng và cân nhắc, từ đó sẽ giảm tối đa tình trạng vay ké, tình trạng cấu kết lừa đảo ngân hàng.

Một khó khăn mà các tổ chức tín dụng khi xử lý tài sản đảm bảo qua cơ quan chức năng hiện nay, theo ông An, là khi các TCTD nhờ công an, chính quyền địa phương chứng kiến viêc thu hồi tài sản của TCTD theo hợp đồng thì họ thường rất ngại và nếu có tham gia thì họ chỉ thức hiện đúng nhiệm vụ chứng kiến và giữ gìn trật tự để tránh xảy ra sô sát. Trong trường hợp chủ tài sản không bàn giao tài sản thì TCTD cũng chịu thua. Nay nếu việc xử lý tài sản đảm bảo này đưa vào luật, nếu chủ tài sản chống đối không chịu bàn giao cho TCTD để thu hồi nợ là họ đã vi phạm pháp luật, cơ quan công an có quyền tạm giữ, như vậy mới giúp bên cho vay thực hiện được việc thu hồi nợ, tái tạo vốn cho nền kinh tế, cho xã hội.

Ông An đề xuất rằng, ngoài việc cho phép thu giữ, đề nghị các cơ quan chức năng có liên quan cũng tạo mọi điều kiện và thời gian để giúp các TCTD bán được tài sản đã thu giữ, nhất là với các tài sản có quy định cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu. Việc sang tên nhà cửa, đất đai, phương tiện vận tải, ô tô xe máy... đối với tài sản đã thu giữ chỉ cần chữ ký của ngân hàng và người mua (vì chủ tài sản cũ bất hợp tác sẽ vẫn không chịu ký). Đối với tài sản hình thành trên đất thuê của nhà nước, tạo điều kiện cho người mua tài sản tiếp tục thuê đất với thời hạn dài để kinh doanh thu hồi vốn. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thủ tục nhanh chóng cho họ được chuyển vốn vào để mua bán nợ, mua bán sản xuất...

Tùng Lâm

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Ba phiên liền ngân hàng không cần “vay nóng”

Ngân hàng Nhà nước gần như không còn phải hỗ trợ thanh khoản hệ thống...

Ngày 30/5, thị trường liên ngân hàng và ở nghiệp vụ thị trường mở tiếp tục phản ánh trạng thái vốn thuận lợi của hệ thống thời gian gần đây.

Nối tiếp xu hướng thể hiện rõ trong một tháng qua, lãi suất VND trên thị trường liên ngân hàng giảm khá mạnh và về mức thấp.

Theo tổng hợp từ Khối nghiên cứu Maritime Bank, ngày 30/5, lãi suất chào bình quân liên ngân hàng VND tiếp tục giảm 0,08 - 0,32 điểm phần trăm ở hầu hết các kỳ hạn, riêng kỳ hạn 1 tuần vẫn không thay đổi phiên thứ 10 liên tiếp.

Cụ thể, lãi suất qua đêm tiếp tục giảm xuống còn 2,42%, chỉ còn bằng phần nửa so với “mặt bằng” quanh 5%/năm cuối quý 1 đầu quý 2 vừa qua; kỳ hạn 1 tuần giữ ở 4,08%/năm; 2 tuần 3,06% và 1 tháng 3,52%.

Cùng với xu hướng giảm mạnh của lãi suất trên liên ngân hàng thời gian gần đây, ở nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng Nhà nước gần như đã không còn phải bơm vốn điều tiết hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống - hoạt động kéo dài với quy mô lớn sau Tết Nguyên đán.

Hôm qua (30/5) đánh dấu phiên thứ 3 liên tiếp Ngân hàng Nhà nước chào thầu 1.000 tỷ đồng trên kênh cầm cố với kỳ hạn 7 ngày và không có khối lượng trúng thầu.

Trong ngày, có 796 tỷ đồng đáo hạn. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước hút ròng 796 tỷ đồng, đưa khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố giảm xuống mức chỉ còn 379 tỷ đồng.

Theo Thùy Duyên

VnEconomy

Đọc tiếp »

Chào hè, ngân hàng chạy đua tặng tour miễn phí

Hàng loạt các chương trình khuyến mãi chào hè hấp dẫn đã được các ngân hàng triển khai nhằm thu hút khách hàng gửi tiền. Trong đó nổi bật là các chương trình tặng tour du lịch trong và ngoài nước miễn phí.

Giúp khách hàng giải nhiệt mùa hè này, Ngân hàng TMCP Bắc Á (BAC A BANK) tung ra một chương trình vô cùng hấp dẫn dành cho khách gửi tiết kiệm với 2 giải đặc biệt là chuyến du lịch châu Âu hoặc Mỹ dành cho cả đại gia đình 5 người trị giá lên tới nửa tỷ đồng. Các giải Nhất, Nhì, Ba, Tư cũng đủ sức khiến những tín đồ du lịch xốn xang khi mang tới cơ hội khám phá những vùng đất trong mơ như Dubai, Australia, Hồng Kông hay Vinpearl.

Chương trình khuyến mãi mang tên “Du lịch năm châu - Gia đình gắn kết” diễn ra từ 15/5/2017 đến hết ngày 12/8/2017 với tổng trị giá giải thưởng và quà tặng lên tới 5 tỷ đồng.

Chia sẻ về chương trình khuyến mãi khủng này, ông Nguyễn Việt Hanh - Phó Tổng Giám đốc BAC A BANK cho biết: “Mùa hè là khoảng thời gian nghỉ ngơi lý tưởng sau một năm làm việc, học tập bận rộn. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể thu xếp tài chính để có thể tổ chức một chuyến đi trọn vẹn tới những điểm đến hấp dẫn nổi tiếng thế giới cho đại gia đình. Thấu hiểu những trăn trở này, chúng tôi thiết kế CTKM Du lịch 5 châu – Gia đình gắn kết với giải đặc biệt lên tới nửa tỷ đồng như một món quà ý nghĩa dành tặng khách hàng, để mỗi hành trình du lịch là một kỷ niệm ý nghĩa cho cả nhà”.

Để mở ra cơ hội cho cả đại gia đình bước ra khám phá thế giới cùng BAC A BANK, khách hàng chỉ cần gửi tiết kiệm từ 100 triệu đồng với kì hạn tối thiểu 1 tháng hoặc gửi bất cứ số tiền nào với kì hạn từ 9 tháng trở lên. Gửi tiết kiệm càng nhiều, kì hạn càng dài thì cơ hội trúng thưởng càng lớn. Bên cạnh đó, khách gửi tiết kiệm còn được tặng ngay mũ bảo hiểm thời trang khi đáp ứng được các điều kiện của chương trình.

Châu Âu và Bali (Indonesia) cũng là điểm đến cho các khách hàng may mắn của Ngân hàng Quốc dân, theo đó NCB sẽ tặng cho mỗi khu vực (Bắc, Trung, Nam) 1 tour du lịch khám phá châu Âu, 2 tour du lịch khám phá Bali – các tour này đều dành cho 1 người. Ngoài ra, Ngân hàng này cũng tặng thêm các vật dụng tiện ích cho các chuyến đi như gối tựa cổ, ô du lịch, ba lô…

Đang có ý định gửi 300 triệu tiết kiệm để cuối năm mua xe, chị Hoàng Lan (Cầu Diễn, Hà Nội) đã lùng sục thông tin, so sánh lãi suất và chương trình khuyến mãi của hàng loạt ngân hàng để ‘chọn mặt gửi vàng’. Chị chia sẻ: “Đi gửi tiền tiết kiệm quan trọng nhất là lãi suất ngân hàng nào thật cạnh tranh. Tất nhiên là khi ngân hàng có quà tặng ngay và cơ hội bốc thăm may mắn khác thì càng tuyệt vời. Mình đang muốn tổ chức du lịch cho cả nhà nên chắc sẽ chọn ngân hàng nào lãi suất tốt nhất mà lại có cơ hội trúng tour miễn phí thôi.”

Trong khi đó, các chuyên gia truyền thông cho rằng, xu hướng đi du lịch hè với hành trình quốc tế đang ngày càng được người Việt Nam ưa chuộng. Vì thế, các chương trình chào hè tặng tour du lịch miễn phí như của ngân hàng Bắc Á và các ngân hàng khác đã đánh trúng thị hiếu khách hàng, vừa giúp ngân hàng quảng bá hình ảnh, thu hút khách hàng mới vừa đem lại lợi ích thiết thực cho khách gửi tiết kiệm.

A.D

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Mặt bằng lãi suất cho vay hiện chỉ bằng 40% năm 2011 và thấp hơn giai đoạn 2005-2006

Từ cuối tháng 4/2016 đến nay, các NHTM Nhà nước và một số NHTM cổ phần đã giảm khoảng 1%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn và điều chỉnh giảm về tối đa 10%/năm lãi suất cho vay trung và dài hạn đối với khách hàng tốt, vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh.

Ban Dân nguyện Quốc hội vừa công bố các báo cáo tổng hợp các ý kiến chất vấn của cử tri kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIV.

Theo đó, cử tri TP Hồ Chí Minh kiến nghị ngành Ngân hàng cần có cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận được nguồn vốn vay với mức lãi suất ưu đãi để cải tiến công nghệ máy móc, mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm để tăng tính cạnh tranh trên thị trường.

Trả lời vấn đề này, NHNN cho biết trong năm 2016, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tiếp cận nguồn vốn tín dụng, NHNN đã chỉ đạo các đơn vị trong toàn ngành triển khai nhiều giải pháp thiết thực, hiệu quả để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn ngân hàng.

Cụ thể, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD thông qua nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn để đảm bảo cân đối vốn phục vụ phát triển sản xuất, kinh doanh; Điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND, lãi suất cho vay tối đa bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên, góp phần giảm mặt bằng lãi suất hỗ trợ sản xuất, kinh doanh.

Từ cuối tháng 4/2016 đến nay, các NHTM Nhà nước và một số NHTM cổ phần đã giảm khoảng 1%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn và điều chỉnh giảm về tối đa 10%/năm lãi suất cho vay trung và dài hạn đối với khách hàng tốt, vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh. Mặt bằng lãi suất cho vay của các TCTD hiện chỉ bằng 40% lãi suất cho vay năm 2011, thấp hơn mức lãi suất cho vay giai đoạn 2005-2006.

Ngoài ra đã chỉ đạo, hỗ trợ các TCTD hướng dòng vốn tín dụng tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên, trong đó có DNNVV.

Chỉ đạo các TCTD thực hiện các giải pháp như: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ; xem xét miễn giảm lãi vốn vay trên cơ sở đánh giá các biện pháp khắc phục khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng vay; xem xét, điều chỉnh giảm lãi suất cho vay của các hợp đồng tín dụng đã ký trước đây xuống mức lãi suất cho vay hiện hành; đổi mới quy trình cho vay vốn theo hướng giảm bớt phiền hà cho khách hàng, rà soát và hoàn thiện hồ sơ theo hướng tiết giảm tối đa thủ tục, giấy tờ cho doanh nghiệp.

Tổ chức các chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp tại các địa phương nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng ngân hàng; tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có triển vọng phát triển, có sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường nhưng đang gặp khó khăn về tài chính vay được vốn ngân hàng để phục vụ sản xuất kinh doanh.

Bên cạnh các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp nêu trên, NHNN còn xây dựng, triển khai các chính sách tín dụng đặc thù đối với một số ngành, lĩnh vực mà trong đó có đối tượng thụ hưởng là các DNNVV như: Chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ; Chính sách cho vay hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Chính sách cho vay đối với chăn nuôi và thủy sản theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 1149/TTg-KTN ngày 08/8/2012; Chương trình cho vay thí điểm đối với các mô hình liên kết trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, các mô hình ứng dụng khoa học và công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp theo Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 5/3/2014 của Chính phủ; Chính sách cho vay ưu đãi lãi suất theo Chương trình hỗ trợ các huyện nghèo tại Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ; Chính sách cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 7/1/2013 của Chính phủ.

Ngoài ra, để tăng khả năng tiếp cận tài chính của DNNVV, trên cơ sở nhiệm vụ được giao, NHNN đã tích cực phối hợp với các Bộ, ngành chủ quản trong việc triển khai chính sách bảo lãnh tín dụng cho DNNVV thông qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương, hỗ trợ vốn thông qua Quỹ phát triển DNNVV, cũng như xây dựng và hoàn thiện dự thảo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụ thể:

Ban hành Thông tư số 29/2014/TT-NHNN ngày 09/10/2014 hướng dẫn các ngân hàng thương mại phối hợp với Ngân hàng Phát triển Việt Nam trong việc thực hiện cơ chế bảo lãnh cho DNNVV vay vốn theo quy định tại Quy chế bảo lãnh ban hành kèm theo Quyết định số 03/2011/QĐ-TTg.

Ban hành Thông tư số 05/2015/TT-NHNN hướng dẫn các TCTD phối hợp với Quỹ bảo lãnh tín dụng trong cho vay có bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng theo quy định tại Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg ngày 15/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ.

Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong xử lý khó khăn vướng mắc, hoàn thiện 02 cơ chế bảo lãnh tín dụng cho DNNVV thông qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương; hoàn thiện các văn bản hướng dẫn nhằm đưa Quỹ Phát triển DNNVV đi vào hoạt động, tạo thêm 01 kênh hỗ trợ DNNVV tiếp cận vốn.

Thực hiện Nghị quyết số 89/2015/QH13 ngày 09/6/2015 của Quốc hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã được giao chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan (trong đó có NHNN) xây dựng dự thảo Luật Hỗ trợ DNNVV. Dự thảo Luật đã được Chính phủ trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 2; trên cơ sở ý kiến góp ý của các đại biểu Quốc hội, Thường trực Ủy ban Kinh tế đã chủ trì, phối hợp với Cơ quan soạn thảo và các cơ quan liên quan nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật báo cáo Ủy ban Thường Vụ Quốc hội, dự kiến tiếp tục trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 3.

Dự thảo Luật quy định nhiều chính sách hỗ trợ đối với đối tượng DNNVV, trong đó có các chính sách hỗ trợ về tiếp cận tín dụng từ các ngân hàng, tiếp cận tín dụng từ các Quỹ và các hỗ trợ tài chính khác. Đặc biệt, dự thảo Luật còn quy định về việc hỗ trợ DNNVV theo các chương trình hỗ trợ trọng tâm trong từng thời kỳ, trong đó nhấn mạnh vào hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo và tham gia cụm liên kết ngành nhằm thúc đẩy DNNVV đổi mới công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh và sản xuất kinh doanh bền vững.

Với việc triển khai đồng bộ các giải pháp nêu trên của ngành Ngân hàng đã góp phần khơi thông nguồn vốn tín dụng, hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp, người dân trong việc tiếp cận vốn nhất là các DNNVV trong việc cải tiến công nghệ máy móc, mở rộng sản xuất kinh doanh. Trên thực tế, các doanh nghiệp, khách hàng có nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất - kinh doanh, có năng lực tài chính tốt, dự án, phương án sản xuất - kinh doanh hiệu quả, khả thi đã tiếp cận vốn dễ dàng với lãi suất hợp lý.

Tuy nhiên, một số doanh nghiệp, nhất là DNNVV gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn ngân hàng chủ yếu là do năng lực tài chính yếu kém, không chứng minh được tính khả thi và hiệu quả của dự án, phương án sản xuất kinh doanh; nợ phải trả tồn đọng lớn chưa có biện pháp xử lý... Ngoài ra, một số doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện vay vốn nhưng chưa có nhu cầu vay vốn do còn gặp khó khăn về thị trường. Vì vậy, để tăng khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng ngoài những giải pháp từ ngành Ngân hàng, bản thân doanh nghiệp cần cơ cấu lại hoạt động, nâng cao khả năng tài chính, tạo niềm tin để các TCTD yên tâm cấp tín dụng.

Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục triển khai nhiệm vụ và giải pháp về hoạt động ngân hàng để hỗ trợ các doanh nghiệp được vay vốn ngân hàng thuận lợi, góp phần tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng tiếp cận được nguồn vốn vay với mức lãi suất hợp lý; đồng thời, NHNN sẽ tích cực phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong sửa đổi, hoàn thiện chính sách về bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ vốn thông qua các Quỹ, cũng như khung khổ pháp lý hỗ trợ DNNVV theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nhằm hiện thực hóa các chính sách và tăng khả năng tiếp cận tài chính của đối tượng doanh nghiệp này.

Mai Ngọc

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Lãi suất đang có dấu hiệu nhích lên

Tại thời điểm cuối tháng 4, lãi suất huy động tăng ở hầu hết các kỳ hạn; và mức độ tăng ở các NHTM có vốn nhà nước cao hơn.

Vừa qua một số ngân hàng thương mại tăng lãi suất huy động. Đặc biệt là lãi suất tiền gửi trung và dài hạn, lãi suất từ 7,5% đến 8% năm. Nhiều doanh nghiệp lo ngại lãi suất huy động tăng sẽ làm lãi suất cho vay tăng.

Theo cuộc khảo sát lãi suất tại thời điểm cuối tháng 4 của HSC, lãi suất huy động tăng ở hầu hết các kỳ hạn; và mức độ tăng ở các NHTM có vốn nhà nước cao hơn. Tại thời điểm cuối tháng 4, lãi suất huy động bình quân kỳ hạn ngắn (kỳ hạn 1 tháng) tăng 0,2% so với đầu năm; kỳ hạn 6 tháng tăng 0,14% còn kỳ hạn 12 tháng tăng 0,17%. Lãi suất huy động tại các NHTM có vốn nhà nước bình quân là 5,7%; tăng 0,18% so với đầu năm còn tại các NHTMCP là 6,24%; tăng 0,11% so với đầu năm.

Lãi suất cho vay tại thời điểm cuối tháng 4 tăng nhẹ và cao hơn 0,14% so với đầu năm. Lãi suất cho vay bình quân tại thời điểm cuối tháng 4 là 9,36%. Lãi suất cho vay bình quân gia quyền là 9,36%; tăng nhẹ từ mức 9,35% trong 3 tháng đầu năm do lãi suất cho vay kỳ hạn ngắn tại một số ngân hàng tăng.

Tại thời điểm cuối tháng 4, theo nguồn tin từ NHNN, tín dụng đã tăng 5,8% so với đầu năm (cùng kỳ năm ngoái chỉ tăng 4%) và là mức tăng mạnh nhất so với cùng kỳ 6 năm qua. Cung tiền M2 tăng 3,9% so với đầu năm (cùng kỳ tăng 4,8%).

Trong khi đó, tín dụng tăng 20,2% so với cùng kỳ còn M2 chỉ tăng 17%; theo đó chênh lệch thanh khoản tự do vẫn âm 3,2% (tại thời điểm cuối tháng 3 âm 2,15%). Chênh lệch thanh khoản tự do chuyển thành âm gần đây vào tháng 2 sau khi dương 2,4% vào tháng 11 năm ngoái. Theo HSC, điều này cho thấy lãi suất có thể còn tăng vì thanh khoản bị thắt chặt. Và thông thường điều này sẽ không có lợi cho thị trường chứng khoán nhưng lực mua ròng mạnh của khối ngoại đã bù đắp cho điều này. Hiện có thể trực tiếp tiếp cận thị trường vốn nên các công ty chứng khoán giảm nhu cầu vay từ các ngân hàng để tài trợ cho hoạt động cho vay margin (nhưng vay từ các ngân hàng vẫn là nguồn vay có chi phí thấp nhất).

Trước đó, ông Nguyễn Hoàng Minh, Phó giám đốc NHNN chi nhánh TP.HCM cho biết với nguồn lực của các ngân hàng thương mại với các tín hiệu của thị trường như thị trường chứng khoán, bất động sản và các chỉ số về kinh tế vĩ mô, sự quan tâm của Chính phủ đối với các doanh nghiệp, đặc biệt thực hiện Nghị quyết 35 của Chính phủ về hỗ trợ doanh nghiệp và các chiến lược thu hút khách hàng của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, chúng tôi đánh giá lãi suất từ nay đến cuối năm Việt Nam đồng ổn định thì lãi suất có thể giảm từ 0,5 đến 1% ở các kỳ hạn so với năm 2016.

Mai Ngọc

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Từ 15/6, học sinh, sinh viên sẽ được vay tối đa 1,5 triệu đồng/tháng

Từ ngày 15/6/2017, mức cho vay tối đa đối với học sinh, sinh viên (HSSV) sẽ tăng từ 1,25 triệu đồng/tháng/HSSV lên 1,5 triệu đồng/tháng/HSSV.

Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 751/QĐ-TTg điều chỉnh mức cho vay quy định tại Khoản 1 Điều 5 Quyết định 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên.

Mức cho vay tối đa là 1,5 triệu đồng/tháng/học sinh, sinh viên. Như vậy, so với mức cũ đã áp dụng từ ngày 9/1/2016, mức cho vay tối đa đối với học sinh, sinh viên tăng thêm 250.000 đồng/tháng/học sinh, sinh viên.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư cân đối, bố trí cấp đủ nguồn vốn cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho Ngân hàng Chính sách xã hội theo quy định. Ngân hàng Chính sách xã hội có trách nhiệm thực hiện cho vay, giám sát, thu hồi nợ vay theo quy định của pháp luật hiện hành.

Quyết định có hiệu lực thi hành từ ngày 15/6/2017, áp dụng đối với các khoản giải ngân mới kể từ khi Quyết định này có hiệu lực thi hành.

Mai Ngọc

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Ngân hàng nỗ lực đa dạng hóa sản phẩm: các "thượng đế" hưởng lợi

Dưới áp lực cạnh tranh ngày càng cao, các ngân hàng không ngừng đa dạng sản phẩm để gia tăng thị phần ở thị trường bán lẻ. Ngân hàng Phương Đông (OCB) cũng không ngoại lệ khi liên tục tạo ra các sản phẩm để "phủ sóng" nhu cầu của khách hàng.

Định vị là một ngân hàng dẫn đầu trong lĩnh vực bán lẻ, doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), những năm gần đây, OCB đã từng bước tối ưu hóa dịch vụ, đa dạng sản phẩm để tăng năng lực cạnh tranh và đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng.

Tùy theo từng phân khúc, các gói sản phẩm được OCB “thiết kế may đo”, “đóng gói sản phẩm” dựa trên những nghiên cứu nhằm giải quyết nhu cầu tài chính cụ thể của khách hàng. Trên cơ sở đó, rất nhiều sản phẩm đã được triển khai tại nhà băng này dành cho khách hàng cá nhân: cho vay mua bất động sản, sửa chữa nhà, mua ôtô, vay tiêu dùng, vay du học, khám chữa bệnh và các mục đích tiêu dùng khác…

Tiêu biểu và được thực hiện thường xuyên là các chương trình cho vay mua nhà, xe với nhiều ưu đãi. Chẳng hạn, đối với sản phẩm cho vay mua nhà, thời gian qua, OCB tích cực liên kết với các đối tác, chủ đầu tư có uy tín để cho ra mắt những chương trình vay với lãi suất ưu đãi.

Gói “Vay nhanh – Giá rẻ” của OCB đang thực sự “làm mưa làm gió” trên thị trường với lãi suất siêu ưu đãi chỉ từ 5.99%/năm, ngân hàng đưa ra quyết định vay chỉ trong 2 giờ, hồ sơ thủ tục nhanh gọn, phương thức thanh toán hợp lý, giúp nhiều người dễ dàng vay vốn và sở hữu căn nhà mơ ước hay “xế hộp” cho riêng mình.Theo đó, khách hàng của OCB được vay lên đến 100% giá trị nhà, xe thời hạn vay lên tới 20 năm và có thể linh hoạt chọn hình thức trả nợ gốc phù hợp với năng lực tài chính của mình.

Đối với khách hàng doanh nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), doanh nghiệp siêu nhỏ (Micro SME), OCB có các sản phẩm được “may đo” với các gói ưu đãi bao gồm: tiền gửi, thấu chi, tài trợ thương mại, bảo lãnh, thanh toán quốc tế… Các sản phẩm đáp ứng đúng nhu cầu tài chính và giúp tối ưu hóa nguồn vốn cho mục đích kinh doanh của doanh nghiệp ở từng nhóm ngành cụ thể như: sản phẩm cho nhóm ngành dệt may, hải sản, logistic, dược…

Ông Nguyễn Đình Tùng - Tổng giám đốc OCB, chia sẻ: “Phát triển đa dạng hóa sản phẩm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao năng lực của ngân hàng và gia tăng thị phần. Vì vây, mỗi sản phẩm của OCB là quá trình kết hợp giữa nguồn lực hiện có, sự nghiên cứu xu hướng của thị trường và nhu cầu thật của khách hàng. Theo đó, lợi thế của OCB cũng chính là sự thỏa mãn cho từng nhu cầu của khách hàng để tạo sự gắn kết với nhau. Với bề dày 21 năm phát triển và những nền tảng đã được xây dựng kĩ lưỡng, OCB tự tin sẽ tiếp tục mang đến cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ tối ưu, đáp ứng với xu thế, nhu cầu của thị trường”.

Ngoài mạng lưới “phủ sóng” trên hầu hết các tỉnh thành để phục vụ khách hàng, OCB còn đặc biệt phát triển riêng một đội ngũ nhân sự để chuyên biệt hóa với gần 200 trung tâm kinh doanh trong cả nước và kênh phân phối online tiện ích cho khách hàng giao dịch mọi lúc, mọi nơi.

Bắt đầu từ sản phẩm, từ sự hài lòng cho mỗi giao dịch với khách hàng, đồng thời, chủ động xây dựng một hệ thống nền tảng từ công nghệ đến quản trị rủi ro… là những “giá trị” OCB kiên trì theo đuổi trong lộ trình trở thành Ngân hàng đa năng, hiện đại, đứng trong top 10 các ngân hàng bán lẻ tốt nhất Việt Nam.

A.D

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Đang ở Mỹ, bỗng dưng mất hơn 70 triệu tại Việt Nam

Ngay khi nhận được thông tin khách hàng thông báo bị mất 72 triệu đồng trong tài khoản ATM, ngân hàng sẽ hoàn trả tạm thời khoản tiền bị rút trộm của khách hàng.

Theo phản ánh của khách hàng tên Nguyễn Thị Thu ở quận 7, TP.HCM, có tài khoản thẻ ATM tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank). Ngày 28-5, tài khoản của chị bỗng phát sinh 36 giao dịch rút tiền từ thẻ ATM. Mỗi giao dịch có giá trị 2 triệu đồng, tổng cộng tài khoản của chị Thu đã bị rút 72 triệu đồng chỉ sau một đêm.

Do đang công tác tại Mỹ nên chị không nhận được thông báo biến động số dư trong tài khoản từ phía ngân hàng. Phải đến chiều 29-5 theo giờ Việt Nam, khi sử dụng tài khoản online, chị mới phát hiện số tiền bị mất qua 36 giao dịch này.

"Ngay khi nhận được thông tin từ phía khách hàng, các bộ phận của Vietcombank đã tiến hành kiểm tra thông tin. Ban đầu rà soát camera thì thấy người rút tiền không phải là chủ thẻ. Ngân hàng xác định thông tin của thẻ đã bị sao chép để làm thẻ giả và rút trộm tiền" - đại diện ngân hàng này nói.

Phía ngân hàng này cũng cho biết đã liên hệ với chi nhánh phát hành thẻ để trao đổi với chủ thẻ. Theo đó, Vietcombank sẽ hoàn trả tạm thời khoản tiền bị rút trộm của khách hàng, sau đó phối hợp với cơ quan liên quan để tiếp tục điều tra, làm rõ sự việc.

"Ngay khi nhận được thông tin từ phía khách hàng, ngân hàng đã thực hiện những biện pháp nghiệp vụ như khóa thẻ và thông báo tới các cơ quan liên quan để bảo vệ lợi ích của khách hàng. Tuy nhiên, do chủ thẻ vẫn ở nước ngoài nên chi nhánh Vietcombank chưa thể liên hệ để giải quyết" - vị này cho biết.

Cuối tháng 4 vừa qua, chủ tài khoản ATM của Sacombank cũng xảy ra hiện tượng bị rút tiền.Theo đó, vào lúc 23 giờ ngày 24-4, tài khoản của anh Hoàng Minh Tâm đã bị rút hết số dư trong tài khoản, lên tới 94,9 triệu đồng tại ATM Sacombank ở Công viên Lê Văn Tám (quận 1, TP.HCM). Đến sáng 25-4, anh Tâm mới phát hiện sự việc thông qua tin nhắn thông báo giao dịch và ngay lập tức liên hệ Sacombank.

Theo Thùy Linh

Pháp luật TPHCM

Đọc tiếp »

Chủ tịch NAPAS được bổ nhiệm làm Vụ trưởng Vụ Thanh toán NHNN

Ông Phạm Tiến Dũng, Chủ tịch Hội đồng quản trị, đại diện 100% vốn nhà nước tại Công ty Cổ phần Thanh toán quốc gia Việt Nam (NAPAS) được bổ nhiệm giữ chức Vụ trưởng Vụ Thanh toán .

Theo đó, ngày 31/5/2017, Thống đốc NHNN ban hành Quyết định số 1062/QĐ-NHNN bổ nhiệm ông Phạm Tiến Dũng, Chủ tịch Hội đồng quản trị, đại diện 100% vốn nhà nước tại Công ty Cổ phần Thanh toán quốc gia Việt Nam (NAPAS) giữ chức Vụ trưởng Vụ Thanh toán – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kể từ ngày 1/6/2017.

Thay mặt Thống đốc NHNN, Phó Thống đốc Nguyễn Kim Anh đã trao Quyết định và chúc mừng ông Phạm Tiến Dũng được Ban Cán sự Đảng, Ban Lãnh đạo NHNN tín nhiệm và bổ nhiệm giữ chức Vụ trưởng Vụ Thanh toán, NHNN.

Phó Thống đốc khẳng định, với Ngân hàng Trung ương của bất cứ quốc gia nào, thanh toán là một trong ba trụ cột chính bên cạnh trụ cột về chính sách và Thanh tra, giám sát, cùng với những mảng công việc khác. Trong những năm qua, NHNN Việt Nam luôn quan tâm đến những trụ cột này trong đó có lĩnh vực thanh toán và đã đạt được những kết quả tích cực.

Trước đó, ngày 26/4/2017, Thống đốc NHNN đã có văn bản số 825/QĐ-NHNN quyết định ông Bùi Quang Tiên thôi giữ chức Vụ trưởng Vụ Thanh toán - NHNN để chuyển công tác sang BIDV đảm nhiệm chức vụ thành viên chuyên trách Hội đồng quản trị BIDV, làm người đại diện 30% vốn Nhà nước tại BIDV kể từ ngày 01/5/2017.

Mai Ngọc

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Các ngân hàng đang phải đối mặt với nhiều rủi ro về an ninh công nghệ, bảo mật thông tin

Phó Thống đốc NHNN nhấn mạnh công tác đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động ngân hàng vẫn còn những khó khăn, tồn tại và đứng trước những thách thức lớn, đòi hỏi ngành Ngân hàng phải đặc biệt quan tâm.

Ngày 31/5/2017, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã tổ chức Hội nghị trực tuyến triển khai một số nội dung về công tác đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng, đặc biệt là bảo đảm an toàn, an ninh mạng và an toàn trong hoạt động thanh toán thẻ.

Theo Cổng thông tin Ngân hàng nhà nước, phát biểu khai mạc Hội nghị, Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú nhấn mạnh, NHNN tổ chức Hội nghị trực tuyến triển khai một số nội dung về công tác đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng trong tình hình hiện nay, đây là Hội nghị có quy mô lớn nhất từ trước tới nay của ngành Ngân hàng về công tác đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động ngân hàng với thành phần là các đơn vị thuộc NHNN, các NHTM nhà nước, các tổ chức tín dụng (TCTD) và Giám đốc chi nhánh loại 1 của NHTM và được truyền trực tuyến đến 63 NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố.

Trong những năm qua, Việt Nam đã hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và phát triển kinh tế thị trường ngày càng mạnh mẽ. Hệ thống ngân hàng cũng có bước phát triển cả về quy mô tài sản, vốn, mạng lưới. Tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, ngành Ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Hoạt động cạnh tranh, kinh doanh ngày càng chịu nhiều áp lực, rủi ro. Tình hình kinh tế - xã hội trên thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, tội phạm gia tăng.

Đặc biệt, sự phát triển của khoa học công nghệ, một mặt giúp các ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng hiện đại, tiện ích cho khách hàng, nhưng mặt khác, các ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro về an ninh công nghệ, bảo mật thông tin… Thực tế trên đặt ra những khó khăn, thách thức rất lớn đối với công tác đảm bảo an ninh, an toàn cho hoạt động ngân hàng trong tình hình hiện nay.

“Nhận thức được những vấn đề trên, từ nhiều năm nay, Lãnh đạo NHNN rất quan tâm chỉ đạo các đơn vị trong Ngành triển khai khá đồng bộ các giải pháp nhằm đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng. Các cơ chế chính sách, quy định về bảo mật thông tin, an ninh mạng, an toàn kho quỹ, huy động tiền gửi tiết kiệm đã thường xuyên được rà soát, ban hành mới, sửa đổi bổ sung để đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Hạ tầng kỹ thuật, công nghệ, cơ sở vật chất của NHNN liên tục được đầu tư, nâng cấp hiện đại. Các TCTD cũng đã chủ động áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về an ninh, bảo mật, triển khai nhiều giải pháp, đặc biệt là đầu tư trang thiết bị, hạ tầng công nghệ hiện đại, nhằm đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng, kho quỹ, hệ thống thanh toán, công nghệ thông tin. Ngành Ngân hàng cũng đã thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng như: Bộ Công an, Tòa án, Viện kiểm sát trong công tác phòng chống tội phạm liên quan đến lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Tuy nhiên, công tác đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động ngân hàng vẫn còn những khó khăn, tồn tại và đứng trước những thách thức lớn, đòi hỏi ngành Ngân hàng phải đặc biệt quan tâm”, Phó Thống đốc Đào Minh Tú nói.

Hội nghị nhằm tập trung phân tích, đánh giá những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, yếu kém, thách thức trong công tác bảo đảm an ninh mạng, hoạt động thanh toán, an toàn kho quỹ, huy động tiền gửi tiết kiệm, đề ra các nhiệm vụ, giải pháp nhằm tăng cường đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng trong thời gian tới. Với mục tiêu đó, Hội nghị tập trung thảo luận làm rõ những nội dung chủ yếu sau đây: Một là, công tác đảm bảo an ninh, an toàn kho quỹ của hệ thống ngân hàng và một số biện pháp đảm bảo an toàn tại trụ sở ngân hàng; Hai là, tình hình và các biện pháp đảm bảo an toàn, an ninh mạng; Ba là, tình hình và các giải pháp đảm bảo an toàn trong hoạt động thanh toán thẻ; Bốn là, một số vấn đề an toàn trong quản lý hoạt động tiền gửi tiết kiệm.

Tại Hội nghị, đại diện Lãnh đạo C45, C50 - Bộ Công an đã chia sẻ một số biện pháp đảm bảo an toàn tại trụ sở ngân hàng, bảo đảm an toàn, an ninh mạng và đảm bảo an toàn trong hoạt động thanh toán thẻ…

Mai Ngọc

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Giá vàng tăng chậm

Tình hình thị trường vàng miếng trong nước tháng 5 vừa qua nhìn chung ít có sự biến động, đa số các nhà đầu tư trong nước chỉ đứng bên ngoài quan sát thị trường và hầu như không có các giao dịch lớn.

Tính đến 9h sáng nay, giá vàng miếng SJC được niêm yết tại Công ty VBĐQ Phú Nhuận (PNJ) ở 3 khu vực TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ ở mức giá 36,25 – 36,45 triệu đồng/lượng, giá mua vào và giá bán ra tăng 70 nghìn đồng/lượng so với chốt phiên giao dịch cuối tháng 5 vừa qua. Còn tại thị trường Hà Nội giá vàng miếng SJC được niêm yết ở mức 36,30 - 36,40 triệu đồng/lượng, giá mua vào và giá bán ra tăng 50 nghìn đồng/lượng.

Giá vàng miếng SJC niêm yết tại Công ty VBĐQ SJC ở mức 36,25-36,45 triệu đồng/lượng, tăng 30 nghìn đồng/lượng ở cả hai chiều mua và bán ra. Chênh lệch giá mua - bán vẫn ở mức 200 nghìn đồng/lượng.

Nguyên nhân giá vàng miếng trong nước sáng nay tăng mạnh trở lại là do ảnh hưởng bởi đà tăng của giá vàng thế giới trong phiên giao dịch đêm qua. Hiện giá vàng trong nước đang đắt hơn thế giới 1,6 triệu đồng/lượng.

Kết thúc phiên giao dịch đêm qua (giờ Việt Nam), giá vàng giao tháng Tám tăng 9,7 USD, tương đương 0,8%, lên 1.275,40 USD/ounce. Truy nhiên, sau khi Beige Book được công bố, giá kim loại này lùi về 1.272,90 USD/ounce.

Được công bố sau khi Sàn giao dịch hàng hóa New York (Comex) đóng cửa, Cuốn sách màu be (Beige Book), tập hợp các báo cáo kinh tế tại các vùng của Fed, cho thấy nền kinh tế tăng trưởng ở mức “khiêm tốn đến trung bình” tính đến cuối tháng 5/2017.

Mặc dù trong tháng 5 giá vàng thế giới có nhiều sự biến động như ảnh hưởng của cuộc bầu cử tổng thống Pháp (07/05), hay nhưng căng thẳng từ nội bộ chính quyền tổng thống Mỹ ông Donal Trump về việc tiết lộ những thông tin tình báo đối với Nga, tuy nhiên tình hình thị trường vàng miếng trong nước tháng vừa qua nhìn chung ít có sự biến động, đa số các nhà đầu tư trong nước chỉ đứng bên ngoài quan sát thị trường và hầu như không có các giao dịch lớn.

Đa số các giao dịch trong tháng 5 vừa qua vẫn chỉ là các giao dịch nhỏ lẻ là chủ yếu. Giá bán ra vàng miếng SJC trong tháng 5 cũng có xu hướng giảm, chốt phiên giao dịch cuối tháng 5 giá vàng miếng SJC đa số được các doanh nghiệp kinh doanh vàng niêm yết ở mức 36,38 -36,40 triệu đồng/lượng ( tính đến 16h chiều ngày hôm qua), đây cũng là mức giá bán ra thấp nhất trong tháng 5 vừa qua.

Mai Ngọc

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

ACB: 24 năm tinh luyện qua thời gian

Nếu chọn một ngân hàng mang trong mình những câu chuyện kể hấp dẫn và là một mẫu hình ngân hàng tư nhân làm thay đổi ngành tài chính ngân hàng Việt Nam, ACB sẽ là câu chuyện đầy cảm hứng mà ai cũng muốn nghe.

Thành lập vào năm 1993, 24 năm qua, ACB đã chứng minh sự tồn tại và phát triển bằng thực lực vốn có. Những con người với niềm đam mê và niềm tin mạnh mẽ từ thế hệ này sang thế hệ khác đã xây dựng nên một định chế tài chính mà bất kỳ ai khởi nghiệp cũng đều mong muốn: mạng lưới 350 kênh phân phối trải đều khắp 47 tỉnh thành; gần 10.000 nhân viên đồng lòng và sự tin cậy của hàng triệu khách hàng.

Trong lịch sử ngành ngân hàng Việt Nam, ACB cũng được ghi nhận như ngân hàng “bị” thử thách qua nhiều biến cố, nhưng “lửa thử vàng gian nan thử sức”. Sau mỗi lần như vậy, ACB bền bĩ vượt qua và đứng lên khiến người trong cuộc thì tự hào, còn người ngoài cuộc thì ngạc nhiên, thán phục.

Mỗi thành công ACB đạt được đều xoay quanh ba trục vững chắc: con người, hệ thống quản trị, và sự gắn kết với khách hàng, cộng đồng qua những lợi ích thực tế. Bổ sung “sức mạnh”, định hướng hoạt động cho ba trục này chính là năm giá trị cốt lõi: cách tân, hài hòa, cẩn trọng, chính trực và hiệu quả.

Đội ngũ quản trị, điều hành và nhân viên ACB từ ngày đầu thành lập cho đến hôm nay đều là những người có năng lực, bản lĩnh và đạo đức. ACB là một tập thể mà mỗi nhân sự đã, đang và sẽ không ngừng tự hoàn thiện trong mối quan hệ hài hòa với ngân hàng, với cộng đồng xung quanh.

Đó là những con người có tâm thế của người tiên phong khi đẩy mạnh văn hóa sáng tạo, đề ra những ý tưởng đột phá giúp ACB nâng cao vị thế trong ngành. ACB từng là ngân hàng đầu tiên trên thị trường về thẻ, về thanh toán quốc tế, về mô hình sàn địa ốc…. Và hiện nay, ACB vẫn đang dẫn dắt thị trường về các sản phẩm, dịch vụ được “may đo” đúng theo nhu cầu của khách hàng,

Hỗ trợ mạnh mẽ cho đội ngũ nhân sự của ACB chính là hệ thống quản trị mà ngân hàng đang áp dụng. Hệ thống quản trị của ACB, từ quản trị nhân sự đến quản trị rủi ro, vốn được thiết lập chặt chẽ từ rất sớm. Các chính sách, quy định của ACB đóng vai trò như một công cụ “pháp lý” để giúp ACB giám sát nghiêm ngặt mọi hoạt động, giúp nhân viên cẩn trọng và yên tâm khi làm việc, giúp khách hàng thêm tin tưởng khi giao dịch với ACB.

Và để đáp ứng cho sự phát triển, trong 5 năm trở lại đây, nhà băng này “mạnh tay” đầu tư cho nền tảng kỹ thuật công nghệ tích hợp vào hệ thống quản trị. ACB đưa khoa học kỹ thuật vào quản trị, đưa những nhân sự trí thức có khả năng áp dụng công nghệ cao, tư duy tốt vào trong quản trị ngân hàng để đạt hiệu quả như mong đợi.

Những sự thay đổi, vận động nội tại dựa trên yếu tố con người và hệ thống quản trị của ACB trong những năm qua đều không nằm ngoài mục tiêu phục vụ khách hàng tốt nhất. Đặt khách hàng làm trọng tâm, 24 năm của ACB là 24 năm tự hoàn thiện, tự khám phá và đáp ứng nhu cầu thị trường, tự vận động để “tiếp” cho thị trường những sản phẩm mới cũng như tạo ra hiệu quả cho ngân hàng.

Bên cạnh đó, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, nhu cầu về chất lượng dịch vụ của khách hàng liên tục thay đổi, ACB vẫn được khách hàng tin tưởng nhờ vào mạng lưới kênh phân phối mở rộng, các kênh giao tiếp phục vụ khách hàng nâng cấp theo công nghệ mới, văn hóa Người ACB luôn hướng đến khách hàng được xây dựng …..

Tại ACB, sự phát triển bền vững không chỉ là cam kết lợi ích cho cổ đông, nhân viên hay khách hàng, mà đi cùng với trách nhiệm của một doanh nghiệp với cộng đồng. Các hoạt động cộng đồng của ACB dưới tên gọi chung Hành trình “Tôi yêu cuộc sống” là một hành trình của sự yêu thương, chia sẻ được thực hiện xuyên suốt nhiều năm qua và trải dài khắp mọi miền đất nước.

ACB khuyến khích cả lãnh đạo và nhân viên tích cực tham gia các chương trình cộng đồng như một cách thực thi trách nhiệm công dân đối với xã hội. Ngoài ra, mỗi hoạt động cộng đồng ACB phát động đều tích cực lan tỏa, nhận được sự ủng hộ lớn từ khách hàng, cổ đông, và nhà đầu tư.

Như vậy, 24 năm qua là 24 năm mà ACB luôn tìm thấy mình trong sự phát triển chung, luôn tạo ra sự xúc tác để hệ thống ngân hàng thay đổi và luôn biết tạo ra hiệu quả cho hoạt động của chính mình. Mỗi giai đoạn, mỗi thăng trầm ACB trải qua là một quá trình “tinh luyện”, chắt lọc cho mình những “tinh chất” giá trị bền vững theo thời gian.

A.D

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Những thay đổi về chính sách bảo hiểm từ tháng 6/2017

Từ tháng 6/2017, một số chính sách về BHXH, BHYT sẽ có sự điều chỉnh, đó là mức đóng quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; tính lương hưu cho quân nhân, công an, cơ yếu; việc thanh toán vật tư y tế cho người có BHYT và điều chỉnh chi phí khám chữa bệnh người không có BHYT.

Giảm nửa mức đóng quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

Theo Nghị định 44/2017/NĐ-CP ngày 14/4/2017 của Chính phủ quy định mức đóng BHXH bắt buộc vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/6, người sử dụng lao động hàng tháng đóng vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định tại Khoản 3, Điều 44 Luật An toàn, vệ sinh lao động với mức được điều chỉnh như sau:

Giảm từ 1% xuống còn 0,5% trên quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của người lao động được quy định tại các Điểm a, b, c, d, đ và h, Khoản 1, Điều 2 Luật BHXH 2014 (trừ đối tượng là người giúp việc).

Giảm từ 1% xuống còn 0,5% trên lương cơ sở đối với người lao động quy định tại Điểm e, Khoản 1, Điều 2 Luật BHXH 2014.

Đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng sẽ thực hiện quy định trên kể từ ngày 1/1/2018.

Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp trả lương theo sản phẩm, theo khoán thì mức đóng hằng tháng theo quy định tại Điểm a, Khoản 1 Điều này (0,5%); phương thức đóng được thực hiện hằng tháng, 3 tháng hoặc 6 tháng một lần.

Mức lương hưu hàng tháng của quân nhân, công an nhân dân

Từ ngày 26/6, Nghị định số 33/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc đối với quân nhân, công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân có hiệu lực.

Theo đó, quân nhân, công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu bắt đầu hưởng lương hưu hàng tháng từ năm 2016 đến hết năm 2017, tỷ lệ hưởng lương hưu được tính bằng 45% tương ứng với 15 năm đóng BHXH, sau đó, cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%.

Quy định mới về vật tư y tế được BHYT thanh toán

Ngày 14/04/2017, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 04/2017/TT-BYT về việc ban hành Danh mục và tỷ lệ, điều kiện thanh toán đối với vật tư y tế thuộc phạm vi được hưởng của người tham gia BHYT, quy định mức thanh toán tổng chi phí vật tư y tế cho một lần sử dụng dịch vụ kỹ thuật không vượt quá 45 tháng lương cơ sở.

Nếu lấy thời điểm tháng lương cơ sở bằng 1.210.000 đồng, trường hợp người bệnh là đối tượng tham gia BHYT có mức hưởng 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh thì mức thanh toán = 45 x 100% x 1.210.000 = 54.450.000 đồng.

Trường hợp người bệnh là đối tượng tham gia BHYT có mức hưởng 95% chi phí khám bệnh, chữa bệnh nhưng chưa đủ thời gian tham gia BHYT liên tục trên 5 năm, mức thanh toán sẽ là 45 x 95% x 1.210.000 = 51.727.500 đồng...

Danh mục vật tư y tế thuộc phạm vi được hưởng của người tham gia BHYT là cơ sở để quỹ BHYT thanh toán chi phí vật tư y tế sử dụng cho người tham gia BHYT theo quy định của pháp luật về BHYT.

Trường hợp người tham gia BHYT vào viện trước ngày Thông tư 04/2017/TT-BYT có hiệu lực (ngày 1/6/2017) và ra viện trong ngày hoặc sau ngày Thông tư này có hiệu lực thì thực hiện theo quy định tại Thông tư này.

Không có BHYT sẽ chịu phí khám chữa bệnh cao hơn

Ngày 15/3/2017, Bộ Y tế ban hành Thông tư số 02/2017/TT-BYT quy định mức tối đa khung giá dịch vụ khám chữa bệnh không thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT trong các cơ sở khám chữa bệnh của Nhà nước và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám chữa bệnh trong một số trường hợp (có hiệu lực từ ngày 1/6/2017), người bệnh chưa tham gia BHYT, người có thẻ BHYT nhưng khi khám chữa bệnh hoặc sử dụng các dịch vụ khám chữa bệnh không thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT sẽ phải chịu mức phí điều chỉnh.

Có 3 nhóm dịch vụ dành cho người chưa có thẻ BHYT được điều chỉnh khung giá tối đa là giá dịch vụ khám bệnh, kiểm tra sức khoẻ; giá dịch vụ ngày giường điều trị; giá dịch vụ kỹ thuật và xét nghiệm dành cho các hạng bệnh viện. Trong đó, 2 nhóm dịch vụ khám bệnh và dịch vụ ngày giường điều trị đều có mức tăng cao gấp 2-4 lần so với giá hiện tại, tiền khám bệnh đã tăng gấp 4 lần ở phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế xã; tăng 2 lần ở bệnh viện hạng 1 và hạng 2.

Thông tư cũng bổ sung giá của 35 dịch vụ chưa được BHYT chi trả như: dịch vụ thẩm mỹ, thay răng giả, trợ thính, điều trị lác, cận thị và tật khúc xạ...

Mức tăng này sẽ là gánh nặng đáng kể với người bệnh không có BHYT phải điều trị nội trú dài ngày và tác động mạnh nhất đến người bệnh chưa có thẻ BHYT là nhóm giá dịch vụ kỹ thuật và xét nghiệm dành cho các hạng bệnh viện, bất kể người bệnh điều trị ngoại trú hay nội trú, điều trị ít ngày hay dài ngày.

PV

Theo Chinhphu.vn

Đọc tiếp »

Vốn cho nền kinh tế: Đã tới lúc thôi phụ thuộc ngân hàng

Sự lệ thuộc rất lớn về vốn của các tổ chức kinh tế và cá nhân vào hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) sẽ khiến hệ thống này rất dễ bị tổn thương từ những thay đổi bất lợi của nền kinh tế và ngược lại. Vì thế, đã tới lúc nguồn vốn cho nền kinh tế tìm kiếm thêm nhiều “chỗ dựa” khác, để đảm bảo an toàn, bền vững.

Gánh nặng

Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), mô hình tăng trưởng của Việt Nam là mô hình phụ thuộc vào quy mô vốn đầu tư, trong đó chủ yếu dựa vào tín dụng từ khu vực ngân hàng. Gánh nặng cung cấp vốn cho nền kinh tế đặt lên hệ thống các TCTD ngày càng lớn, tỉ lệ tín dụng so với GDP tăng liên tục trong giai đoạn 2012-2015 (năm 2012: 95,2%; năm 2013: 97%; năm 2014: 100%; năm 2015: 111,1%); tới năm. Trong khi đó, tỉ lệ này ở một số nước chỉ khoảng trên dưới 50%, tiêu biểu như: Indonesia (36,5%), Philippines (39,1%), Ấn Độ (51,6%)… Điều này đặt ra áp lực lớn cho hệ thống TCTD, có khả năng gây tác động tiêu cực cho nền kinh tế vĩ mô.

Nhận xét về việc cung ứng vốn cho nền kinh tế của ngành ngân hàng năm 2016, báo cáo của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia cho biết, hệ thống tài chính cung ứng khoảng 1.230 nghìn tỷ đồng cho nền kinh tế. Trong đó, khu vực ngân hàng cung ứng 68,1%, thị trường vốn cung ứng 31,9%. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực, năng lực cung ứng vốn của hệ thống tài chính Việt Nam còn hạn chế. Độ sâu tài chính của hệ thống tài chính Việt Nam chỉ đạt 181% GDP, thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực Philippines (194%), Thái Lan (339%), Trung Quốc (337%), Malaysia (372%)… Hơn nữa, cơ cấu tài sản giữa các lĩnh vực trong hệ thống tài chính chưa hợp lý. Hệ thống TCTD chiếm tới 96,2% tổng tài sản toàn hệ thống tài chính; trong khi, các DN bảo hiểm chiếm 2,8%; các công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ chỉ chiếm 1%.

Những phân tích trên cho thấy, việc cung ứng vốn đang phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống ngân hàng, trong khi tiềm năng từ các thị trường chứng khoán và trái phiếu là rất lớn nhưng vẫn chưa thể phát huy. Điều này đặt ra quá nhiều gánh nặng lên “vai” các TCTD. Thậm chí, nhiều chuyên gia cho rằng, nếu kéo dài, đây sẽ trở thành điểm nghẽn cho phát triển kinh tế. Nguyên nhân do nguồn vốn của các DN Việt Nam vẫn chiếm trên 50% là đi vay ngân hàng, trong khi trình độ công nghệ còn yếu kém, thiếu kinh nghiệm, kiến thức kinh doanh… nên rất dễ phát sinh nợ xấu, gây ảnh hưởng tới toàn hệ thống.

Trong một bài phát biểu gần đây, Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng đã cho hay, NHNN vẫn đang cho phép các TCTD sử dụng tối đa 50% vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu của DN, trong khi lẽ ra vốn đầu tư trung dài hạn của DN phải được huy động từ thị trường vốn, thị trường chứng khoán; nhưng do các thị trường này chưa phát triển, vốn cung ứng cho nền kinh tế vẫn chủ yếu thực hiện qua hệ thống ngân hàng.

Nói về hạn chế của việc nguồn vốn nghiêng quá nhiều về ngành ngân hàng, một chuyên gia đến từ Viện Chiến lược ngân hàng (NHNN) cho rằng, nếu áp lực vẫn cứ tiếp tục đổ lên vai ngân hàng phải gánh vác cả vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế thì “căn bệnh” thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn sẽ thường trực. Áp lực này còn làm méo mó mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa, trong khi sự cân bằng giữa hai chính sách này là yếu tố quyết định đến ổn định kinh tế vĩ mô.

Trông đợi nguồn vốn khác

Trên lý thuyết, thị trường tài chính bao gồm: Các ngân hàng, công ty chứng khoán, quản lý quỹ và các công ty bảo hiểm. Các ngân hàng chủ yếu cung ứng vốn ngắn hạn. Các định chế còn lại tạo lập nguồn vốn trung và dài hạn. Nhưng rõ ràng, những phân tích trên cho thấy, thị trường vốn của Việt Nam đang bị lệch nên rất cần sự thay đổi và tìm đường phương hương hợp lý về nguồn vốn cho nền kinh tế. Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng cho biết, nhu cầu vốn của DN còn rất lớn. Mặc dù ngành Ngân hàng đã rất tích cực huy động vốn để đảm bảo đáp ứng cho nền kinh tế, song một phần lớn nguồn lực vẫn còn chưa được khơi thông, đang nằm ở các khoản nợ xấu và các tài sản bảo đảm chưa được xử lý. Vì thế, những nguồn vốn hợp lý để thay thế cần được phát huy hiệu quả hơn.

Thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động từ năm 2000, đã có nhiều sự phát triển, với lượng vốn hóa từ 1.200 tỷ đồng năm 2000, dự kiến sẽ đạt 100 tỷ USD vào năm nay. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) cho biết, tính đến tháng 3/2017, mức vốn hóa thị trường đạt hơn 2.260 nghìn tỷ đồng (tương đương 50,3% GDP), tăng 16% so với cuối năm 2016 và là mức cao nhất từ khi thành lập thị trường. Thống kê của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia cho thấy, 4 tháng đầu năm 2017, tổng giá trị mua ròng của nhà đầu tư nước ngoài đạt 820 triệu USD (trong đó: 550 triệu USD trái phiếu, 270 triệu USD cổ phiếu) gấp 2,5 lần so với cùng kỳ năm 2016. Điều này có được là nhờ sự tin tưởng vào triển vọng kinh tế vĩ mô và thị trường chứng khoán Việt Nam cùng việc dòng vốn đầu tư quốc tế từ đầu năm 2017 có xu hướng quay lại các thị trường chứng khoán khu vực châu Á.

Mặc dù tốc độ tăng nhanh như vậy, nhưng nguồn vốn hỗ trợ thực sự cho DN từ thị trường này còn rất nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh doanh của DN. Số công ty niêm yết/tổng số DN hiện có ở Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 0,1% (Báo cáo thường niên DN Việt Nam 2016/2017 của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam -VCCI). Tuy nhiên, với những sự phát triển mạnh mẽ nêu trên, việc trông chờ vào thị trường chứng khoán không phải không có tín hiệu lạc quan.

Bên cạnh đó, nguồn vốn có thể còn đến từ thị trường trái phiếu, nhưng các DN Việt Nam vẫn chưa tận dụng được cơ hội từ thị trường này. Vì thế, thị trường trái phiếu vẫn chủ yếu là trái phiếu Chính phủ. Thậm chí, nhiều ngân hàng còn dành vốn để mua trái phiếu Chính phủ khiến lãi suất loại trái phiếu này không hề thấp. Trong khi đó, trái phiếu DN luôn được xem là kênh mang lại lợi thế lớn, giúp DN linh hoạt trong việc sử dụng nguồn vốn mà không phụ thuộc vào việc giải ngân vốn, nhưng đến nay, thị trường này vẫn đang ở giai đoạn “sơ khai”, số lượng DN Việt Nam phát hành được trái phiếu còn rất ít.

Tuy nhiên, điều đáng mừng là việc thu hút nguồn vốn nước ngoài đang được các DN làm khá tốt. Nhưng sự biến động khó lường của nền kinh tế, cùng việc nền kinh tế trong nước đang lộ ra nhiều con số nợ xấu hơn, đầu tư chưa hiệu quả… sẽ làm giảm niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, xét đến cùng, điều quan trọng vẫn là năng lực quản trị, sự chủ động của DN cùng việc điều hành của các cơ quan Nhà nước trong việc phát triển kinh tế vĩ mô hợp lý.

Theo Hương Dịu

Báo Hải quan

Đọc tiếp »

Vì sao lãi suất cho vay chưa thể giảm sâu?

Một trong những nguyên nhân chính khiến lãi suất cho vay của các NHTM khó có thể giảm sâu là do chi phí phải trích lập dự phòng cho nợ xấu vẫn còn rất lớn.

Lãi suất cho vay đã nỗ lực giảm nhưng vẫn cao

Theo thông tin từ NHNN cho biết, từ cuối tháng 4/2016 đến nay, các NHTM Nhà nước và một số NHTM cổ phần đã giảm khoảng 1%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn và điều chỉnh giảm về tối đa 10%/năm lãi suất cho vay trung và dài hạn đối với khách hàng tốt, vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh. Mặt bằng lãi suất cho vay của các TCTD hiện chỉ bằng 40% lãi suất cho vay năm 2011, thấp hơn mức lãi suất cho vay giai đoạn 2005-2006.

Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực thì mức lãi suất này vẫn ở mức cao. Lý giải vấn đề này, Thống đốc NHNN cho biết một số nước trong khu vực (như Nhật Bản, Trung Quốc) có lãi suất cho vay thấp là vì: Lạm phát được kiềm chế ở mức thấp, kinh tế vĩ mô ổn định; Khả năng dự báo và hoạch định kế hoạch sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cao; Hoạt động SXKD của doanh nghiệp không quá phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng.

Trong khi đó, Việt Nam là nước đang phát triển, nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế xã hội của tất cả các khu vực kinh tế đều ở mức cao, kinh tế vĩ mô về cơ bản ổn định nhưng các cân đối lớn của nền kinh tế chưa thực sự bền vững, kỳ vọng lạm phát còn cao và dễ biến động, xử lý nợ xấu gặp nhiều khó khăn, đồng thời thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu chưa phát triển đồng bộ dẫn tới nhu cầu vốn của doanh nghiệp cũng như vốn đầu tư cho phát triển kinh tế phụ thuộc lớn vào hệ thống ngân hàng,... Các yếu tố này đã ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất cho vay của TCTD.

Tuy nhiên, so sánh số liệu với một số nước trong khu vực như Myanmar, lãi suất cho vay ở mức 13%/năm, Indonesia là 11,9%/năm, Thái Lan là 6,3%/năm, Singapore là 5,4%/năm thì mặt bằng lãi suất cho vay bằng VND của Việt Nam hiện nay khoảng 6-11%/năm, lãi suất cho vay bằng ngoại tệ trong khoảng 3-4% vẫn ở mức tương đối hợp lý với tương quan kinh tế vĩ mô.

Gánh nặng nợ xấu

Một trong những nguyên nhân chính khiến lãi suất cho vay của các NHTM khó có thể giảm sâu là do chi phí phải trích lập dự phòng cho nợ xấu vẫn còn rất lớn.

Theo thống kê của chúng tôi từ BCTC hợp nhất quý I/2017, các ngân hàng đã phải dành phân nửa lợi nhuận thuần để trích lập dự phòng.

Theo chuyên viên phân tích của BVSC, hiện mặt bằng lãi suất huy động tương đối ổn định, kỳ vọng lạm phát cũng đã được kéo xuống nên chi phí vốn của các ngân hàng thương mại sẽ được cải thiện theo chiều hướng tích cực. Trong bối cảnh đó, nếu nợ xấu được xử lý quyết liệt hơn, nhiều khả năng vẫn còn dư địa để lãi suất cho vay có thể giảm tiếp dù với biên độ không nhiều.

Lạm phát tăng không quá cao và nằm trong tầm kiểm soát sẽ tạo thêm nhiều điều kiện để NHNN duy trì chinh sách tiền tệ nới lỏng ở mức vừa phải. Làn sóng tăng lãi suất huy động và phát hành chứng chỉ tiền gửi lãi suất cao của một số ngân hàng có quy mô vừa và nhỏ hồi giữa tháng 3, đầu tháng 4 vừa qua (chủ yếu để đối phó với Thông tư 06) đã tạm lắng dịu.

"Tuy nhiên, trong kịch bản lạm phát trong các tháng tới tiếp tục trong vòng kiểm soát như dự báo, chúng tôi cho rằng NHNN có thể sẽ nới thêm 1-2% tăng trưởng tín dụng so với mục tiêu ban đầu nhằm hỗ trợ tăng trưởng trong bối cảnh GDP đạt mức khá thấp trong quý I vừa qua", BVSC cho biết.

Trên thực tế, số liệu cho thấy tín dụng đang tăng tốc rất nhanh ngay trong những tháng đầu năm. Tăng trưởng cho vay toàn hệ thống tính đến hết tháng 4 đã đạt 5,76% - tăng 1,73% so với cuối quý I đồng thời cao hơn đáng kể so với cùng kỳ 3 năm gần đây. Nhiều ngân hàng tính đến quý I có dư nợ cho vay vượt khá xa mức tăng trưởng chung của toàn hệ thống như: Vietinbank tín dụng tăng 5,6% so với cuối năm ngoái; Vietcombank tăng hơn 8% so với cùng kỳ 2016; VIB tăng 5,7%...

Sự bứt tốc của tín dụng ngay từ đầu năm có thể sẽ dẫn tới hai kịch bản. Một là các ngân hàng sẽ phải xem xét hãm bớt đà tăng trưởng, siết lại hoạt động cho vay trong ba quý còn lại để vẫn nằm trong chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng mà NHNN chấp thuận từ đầu năm (đặc biệt đối với nhóm các ngân hàng tốp đầu có quy mô cho vay lớn). Hai là các ngân hàng có thể sẽ xin NHNN nới chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng lên một mức cao hơn và người phân tích cho rằng một số ngân hàng đã xử lý khá mạnh tay nợ xấu, có hoạt động cho vay lành mạnh sẽ có thể được NHNN “bật đèn xanh”.

Tuy nhiên, BVSC cho rằng mọi sự nới lỏng luôn cần phải đi kèm với sự thận trọng. Cả hệ thống mới chỉ đang hồi phục bước đầu, rất nhiều ngân hàng vẫn đang nặng gánh với nợ xấu. Vì thế, bất kỳ sự nôn nóng nào trong tăng trưởng dẫn đến sự suy giảm trong chất lượng tài sản cũng cần được NHNN theo dõi chặt và kiểm soát kịp thời.

Ngoài khả năng chỉ tiêu tín dụng có thể được nới thêm thì tăng trưởng của các ngân hàng nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung được kỳ vọng sẽ có sự cải thiện nhờ tiến trình xử lý nợ xấu rốt ráo hơn. Trong kỳ họp Quốc hội thứ 3, khóa XIV hiện tại, một nghị quyết mới về xử lý nợ xấu đã được Chính phủ trình lên Quốc hội. Theo tờ trình này, tính đến 31/12/2016, tỉ lệ nợ xấu nội bảng của các TCTD và nợ xấu đã bán cho VAMC nhưng chưa xử lý được là 5,8%, nếu tính cả nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu, thì tỷ lệ này là 10,08% trên tổng dư nợ cho vay. Nếu được thông qua, nghị quyết mới này sẽ giải phóng lượng vốn khổng lồ ước tính lên tới 600.000 tỷ đồng (tương đương hơn 10% tổng dư nợ cho vay hiện nay).

Theo BVSC, có ba điểm đáng lưu ý trong tờ trình về Nghị quyết xử lý nợ xấu lần này. Thứ nhất, dự thảo Nghị quyết cho phép VAMC được mua các khoản nợ xấu đã sử dụng dự phòng rủi ro đang hạch toán ngoài bảng và chuyển đổi các khoản nợ xấu mà VAMC đã mua bằng trái phiếu đặc biệt sang mua theo giá trị thị trường.

Thứ hai, về quyền thu giữ tài sản đảm bảo, nhiều nút thắt trong luật đất đai hiện hành đã được xử lý. Cụ thể, bên có tài sản phải có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm kèm theo đầy đủ giấy tờ, hồ sơ pháp lý của tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu cho các TCTD để xử lý theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm và quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm. Thêm vào đó, nghị quyết mới đảm bảo cho quyền thu giữ tài sản đảm bảo của các TCTD. Điều này giúp các TCTD rút ngắn thời giam thu hồi nợ, giảm thiểu tình trạng chây ỳ của người vay nợ.

Thứ ba, dự thảo mở ra hướng hỗ trợ, cho phép phân bổ số lãi dự thu đã ghi nhận của các khoản nợ xấu và tài sản tồn đọng của tổ chức tín dụng chưa thoái theo quy định giãn ra trong lộ trình không quá 10 năm, nhằm giảm áp lực lên báo cáo tài chính của các ngân hàng trong ngắn hạn do số lãi dự thu này tại một số ngân hàng không phải là nhỏ.

Mai Ngọc

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Thứ Hai, 8 tháng 5, 2017

Tuyển thêm hơn 5.500 người trong vòng 1 năm qua, VPBank đang tính toán gì với bài toán nhân sự?

Riêng quý đầu năm 2017, VPBank đã tuyển thêm gần 2.700 người, trong đó chủ yếu ở công ty tài chính, còn riêng ngân hàng cũng tuyển tới xấp xỉ 500 chỉ tiêu.

Báo cáo tài chính quý 1/2017 vừa công bố của VPBank cho thấy tổng số nhân sự của ngân hàng hợp nhất đến hết tháng 3 năm nay đã lên đến 20.041 người, tăng 2.654 người so với thời điểm cuối năm 2016. Trong đó riêng ngân hàng mẹ có số nhân sự là 9.198 người, tăng 489 người so với cuối năm trước.

So với cuối quý 1/2016, nhân sự của VPBank và hai công ty con đã tăng thêm 5.513 người và nếu so với cuối năm 2015 thì con số đã tăng tới hơn 7.100 người. Riêng ngân hàng mẹ cũng tăng 2.087 nhân sự so với cách đây 1 năm.

Nhiều người hẳn sẽ đặt câu hỏi, VPBank đang toan tính điều gì mà lại mạnh tay tuyển dụng đến vậy.

Nhìn lại tình hình VPBank vài năm trở lại đây cho thấy ngân hàng này đã phát triển theo một đường thẳng đứng. Ông Nguyễn Đức Vinh, Tổng giám đốc VPBank cho biết hiện ngân hàng hợp nhất đang dẫn đầu nhóm cổ phần về doanh thu, còn nếu tách riêng ngân hàng thì cũng nằm trong top 3. Bên cạnh đó ngân hàng còn dẫn đầu nhóm cổ phần về lợi nhuận. Kết thúc năm 2016 ngân hàng đạt lợi nhuận trước thuế hơn 4.900 tỷ, quý đầu năm 2017 là hơn 1.900 tỷ và kế hoạch cả năm đạt 6.800 tỷ.

Có điều đáng chú ý, phần lợi nhuận này lại được đóng góp nhiều bởi công ty con là FE Credit – vốn dĩ tổng dư nợ chỉ hơn 30 nghìn tỷ. Năm ngoái công ty này đóng góp hơn 1.500 tỷ đồng vào lợi nhuận của ngân hàng hợp nhất, còn riêng quý đầu năm nay thì con số đã lên đến hơn 1.000 tỷ đồng. FE Credit có vốn điều lệ 2.790 tỷ đồng cùng lượng cán bộ nhân viên khoảng 10.000 người, đang nắm trong tay hơn 50% thị phần tài chính tiêu dùng tại Việt Nam.

Còn về nhân sự, theo dõi tình hình của nhà băng này cho thấy không chỉ năm 2016 mà từ 2015 và 2014 VPBank đã tăng lượng nhân sự một cách chóng mặt cùng với việc chuyển đổi mô hình sang bán lẻ. Theo báo cáo của Ban điều hành, thu nhập thuần của khối khách hàng cá nhân đã tăng gấp rưỡi trong năm vừa qua, khối SME tăng 30%, tín dụng tiêu dùng tăng gấp đôi…Riêng đóng góp của hoạt động bán lẻ chiếm tới 75% tổng thu nhập thuần từ hoạt động của ngân hàng, trong đó cho vay tín chấp cá nhân đóng góp gần 40% vào thu nhập hoạt động của khối. Các con số này là minh chứng rõ ràng cho thấy việc tuyển dụng của ngân hàng nhắm đến mục tiêu đánh mạnh vào bán lẻ.

Ngoài việc tuyển ồ ạt, phát triển con người còn là một trong các mục tiêu quan trọng nhất được VPBank chú trọng phát triển. Trong một lần chia sẻ với người viết gần đây, bà Huỳnh Thị Ngọc Trúc, giám đốc khối nguồn nhân lực của VPBank đã tiết lộ điều này.

Bà Trúc cho biết, nhân sự được ngân hàng chú trọng phát triển, đào tạo những năm gần đây theo mô hình quản trị quốc tế. Trong hệ thống 10.000 người (riêng ngân hàng - PV), ngoài các vị trí chủ chốt khoảng hơn 140 vị trí, các vị trí còn lại ngân hàng nhóm những công việc tương tự nhau vào các nhóm nhận diện, từ đó xác định được những yêu cầu về kỹ năng, năng lực cũng như xây dựng kế hoạch đào tạo, phát triển phù hợp cho từng nhóm. Với các tiêu chí đã có, người lao động có thể chủ động đưa ra kế hoạch phát triển bản thân (bao gồm cả luân chuyển nội bộ công ty nếu phù hợp), mục tiêu phấn đấu cũng như có định hướng cho tương lai rõ ràng hơn.

Một vấn đề mà theo bà Trúc đang làm đau đầu các nhà quản trị nhân sự ngân hàng, đó là tình trạng nhảy việc liên tục và thời gian gắn bó ngày càng ngắn. Theo các kết quả khảo sát trước đây, mỗi nhân viên ngân hàng thường gắn bó 5-6 năm, sau đó giảm xuống còn 3-4 năm, và vào năm 2016 thì con số chỉ còn là 2-3 năm. Các vị trí bị nhảy việc nhiều nhất là làm kinh doanh. Thường sau một thời gian ngắn, họ, hoặc là áp lực không chạy theo kịp chỉ tiêu, hoặc không còn hứng thú với công việc đang làm mà muốn thay đổi nên đã tìm đến bến đỗ mới.

Việc nhân sự thay đổi liên tục khiến ngân hàng chịu tổn thất nhiều bởi họ phải bỏ ra từ 6 tháng cho tới 1 năm để đào tạo người mới và luôn trong trạng thái nơm nớp vì không biết người lao động sẽ ở với mình bao lâu. Bà thừa nhận ở VPBank cũng không nằm ngoài xu hướng đó, song ngân hàng buộc phải chấp nhận sống chung và tìm hướng giải quyết.

Để giải bài toán này, VPBank đang xây dựng văn hóa doanh nghiệp để giữ chân người tài. Ở đó người lao động vừa được trả công xứng đáng lại có môi trường phát huy hết khả năng của mình. Với mô hình đang theo đuổi là quản trị theo nhóm công việc, bà Trúc cho biết VPBank đặt mục tiêu sẽ nâng mức độ gắn bó của người lao động lên bình quân 3-4 năm và dài hơn nữa. “Một khi người ta đã gắn bó với mình được đến 5-6 năm thì sẽ gắn bó rất lâu dài”, vị quản lý cấp cao của VPBank, từng là giám đốc nhân sự và giám đốc quản lý dự án chiến lược của HSBC, nhận xét. Bà đồng thời khẳng định, quan điểm của lãnh đạo ngân hàng là VPBank không phải ngân hàng trả lương cao nhất nhưng là nơi làm việc lý tưởng nhất.

Tùng Lâm

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Ngân hàng tìm lại thời hoàng kim

Một loạt kế hoạch bứt phá và đang dần hiện thực hứa hẹn nhiều ngân hàng tìm lại thời hoàng kim...

Về cơ bản, mùa đại hội đồng cổ đông thường niên các ngân hàng thương mại Việt Nam đã khép lại. Cùng lúc, báo cáo kết quả kinh doanh quý 1/2017 đang hé mở một năm khác biệt.

Cho đến nay, 2011 là năm dấu ấn của khởi đầu quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam. Đây cũng là năm những bất ổn nội tại chính thức bộc lộ. Và đây cũng là năm hoàng kim lợi nhuận của hầu hết các ngân hàng trong lịch sử, tính đến cuối 2016.

Sau 2011, kéo dài cho đến 2015 và vẫn còn phổ biến trong 2016, sự đứt gãy của lợi nhuận kéo dài cho đến những nỗ lực phục hồi.

Một thời lãi “ảo”

Như trên, 2011 vừa là năm đỉnh cao lợi nhuận nhưng cũng chính là năm rủi ro lớn chính thức bộc lộ. Dữ liệu thống kê cho thấy lợi nhuận nhiều nhà băng đều đạt đỉnh vào năm này, song mức độ nợ xấu hai con số cũng chính thức được “phơi” ra.

Ngay trước 2011, hệ thống ngân hàng Việt Nam và công chúng quen với con số nợ xấu công bố chỉ trên dưới 3%, mức cao từng ghi nhận chỉ 3,4%. Khi đó, một số hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế quả quyết nợ xấu thực tế cỡ hai con số.

Tại một cuộc họp báo chuyên đề về nợ xấu khi đó, một lãnh đạo chuyên trách của Ngân hàng Nhà nước cho biết, chính họ cũng không rõ các hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế tính toán thế nào mà lại ra được mức độ đó. Hỏi ra, cách tính rất đơn giản: lấy nợ xấu các ngân hàng báo cáo, cộng thêm nợ nhóm 2 (nợ quá hạn nhưng chưa phải nợ xấu) thì thành ra kết quả.

Không truy xét chuyện kỹ thuật của thông tin chia sẻ bên lề cùng “cách tính đơn giản” nói trên, nhưng không lâu sau, Ngân hàng Nhà nước lần đầu tiên công bố và xác nhận nợ xấu của hệ thống ở mức độ hai con số. Diễn tiến tiếp theo là cách nhìn nhận nợ xấu do các tổ chức tín dụng báo cáo, rồi qua mức độ giám sát từ xa của Ngân hàng Nhà nước.

Dù thế nào thì ngay chính năm đỉnh cao lợi nhuận 2011, nợ xấu thực tế đã “ngầm” rất lớn. Để rồi thống kê và công bố một cách thẳng thắn tại 9/2012 lên tới 17,21%.

Nhắc lại mức độ nợ xấu trên để thấy lợi nhuận ngân hàng đã từng một thời hoàng kim nhưng “ảo”. Vì nợ xấu không được nhận diện sát thực, dẫn tới mức độ trích lập dự phòng rủi ro không tương xứng và dẫn tới lợi nhuận cao mà không vững.

Từ 2012, với diễn tiến nhận diện trên, Ngân hàng Nhà nước từng bước thiết lập khung khổ pháp lý mới quy định phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro chặt chẽ hơn, thậm chí có phần khắc nghiệt (với nhiều lần trì hoãn cơ chế). Lợi nhuận ngân hàng theo đó dần “chất” hơn cho đến nay.

Hứa hẹn một năm ấn tượng

Qua mùa đại hội đồng cổ đông, cùng báo cáo kết quả kinh doanh quý 1 đang cập nhật, 2017 hứa hẹn một năm ấn tượng tại nhiều ngân hàng thương mại.

Điểm đầu tiên vẫn phải nhắc đến Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank). Ngân hàng này có lợi nhuận trước thuế hợp nhất quý 1/2017 đạt tới trên 1.900 tỷ đồng. Đây là lần đầu tiên lợi nhuận của một ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân phả hơi nóng sát gáy khối “big 4” (gồm Vietcombank, VietinBank, BIDV và Agribank).

Điểm nhấn đó được chú ý, vì VPBank khá điển hình cho quy mô của một ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân, tổng tài sản chỉ gần 230 nghìn tỷ đồng. Trong khi đó, thử nhìn sang BIDV, thành viên thường nhấn mạnh về quy mô tổng tài sản dẫn đầu hệ thống thời gian gần đây, trên 1 triệu tỷ đồng, thì mức độ lợi nhuận tạo được có khả năng bị VPBank áp sát. Bởi vì, tổng tài sản rất lớn nhưng chất lượng tài sản và mức độ sinh lời của BIDV vẫn chưa thể được cải thiện.

Cũng trong so sánh trên, thuộc nhóm “big 4”, Vietcombank có quy mô tổng tài sản thấp hơn rất nhiều BIDV, nhưng dự kiến năm nay lợi nhuận Vietcombank tiếp tục tạo kỷ lục với 9.200 tỷ, khả năng đạt 9.500 tỷ như lãnh đạo ngân hàng này dự tính.

Ở khối ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân, qua kết quả quý 1 và kế hoạch xác định tại mùa đại hội đồng cổ đông vừa qua, sự bứt phá và trở lại thời hoàng kim đã thể hiện ở một loạt thành viên như Techcombank, MB, LienVietPostBank, HDBank…

Ở một số trường hợp còn khó khăn nhất định sau sáp nhập như SHB, quý 1 kết quả lợi nhuận vẫn thấp, nhưng với những khoản thu dự kiến đã ký, đã tính, đặc biệt là với đối tác nước ngoài, tín dụng tăng mạnh ngay quý đầu năm, cùng kế hoạch sớm đưa công ty tài chính tiêu dùng nhập cuộc, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận tới 50% so với năm ngoái đã được xác định.

Ngay cả tại Sacombank, khó khăn đang chồng chất sau sáp nhập Southern Bank, nhưng sự bứt phá so với 2016 là có triển vọng. Điểm được chú ý ở đây là cơ chế hỗ trợ tái cơ cấu sẽ giúp Sacombank giảm thiểu áp lực chi phí và sức nặng nợ xấu để tiếp tục phát huy thế mạnh vốn có của ngân hàng từng có vị thế hàng đầu trong khối tư nhân này.

Bên cạnh những kế hoạch đã định hình, những kết quả bước đầu công bố, hệ thống ngân hàng còn có triển vọng mới ở cơ chế chính sách.

Tại kỳ họp Quốc hội sắp tới, nếu nghị quyết hỗ trợ xử lý nợ xấu và tái cơ cấu ngân hàng được thông qua, đòn bẩy lợi nhuận sẽ thêm đà từ đầu quý 3/2017. Còn kỹ thuật giãn áp lực chi phí và giãn thoái lãi dự thu dự kiến trong dự thảo nghị quyết gắn với quan điểm chuẩn mực hoạt động ngân hàng lại là chuyện khác.

Tựu chung, như trên, với khung khổ các chuẩn mực cao hơn trong phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, sự trở lại thời hoàng kim lợi nhuận của các ngân hàng năm nay đã khác, bớt “ảo” hơn so với trước.

Đồng thuận với kết quả và xu hướng trên, ngày 3/5 vừa qua, hãng định mức tín nhiệm quốc tế Moody’s đã đồng loạt nâng hạng tín nhiệm cho 8 ngân hàng Việt Nam.

Đó không chỉ là ghi nhận, là tín nhiệm, mà còn là tiền. Vì với hạng mức mới, tốt hơn, các ngân hàng đó sẽ có cơ hội để các đối tác nước ngoài nâng hạn mức tài trợ, thanh toán…, cũng như nếu đi vay vốn quốc tế đã có thêm một cơ sở để có thể được chi phí dễ chịu hơn những năm gần đây.

Theo Vũ Ca

VnEconomy

Đọc tiếp »

Bị phản đối, Vietcombank tạm thời chưa áp dụng điều kiện mới về sử dụng ngân hàng điện tử

Ngân hàng khẳng định, cho đến khi có thông báo mới, Nội dung thỏa thuận sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử cũ vẫn có giá trị hiệu lực...

Ngân hàng Vietcombank vừa có thông báo cho biết, vừa qua, Vietcombank đã có thông báo tới khách hàng về việc điều chỉnh nội dung thỏa thuận sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử với mục đích đảm bảo quyền lợi tối đa cho khách hàng và đảm bảo an toàn cho giao dịch ngân hàng, áp dụng từ ngày 10/5/2017.

Tuy nhiên, qua ý kiến của khách hàng, Vietcombank nhận thấy cách sử dụng từ ngữ trong một số điểm có thể dẫn đến việc hiểu chưa đúng về mục đích của việc điều chỉnh này. Tiếp thu những ý kiến phản hồi đó, Vietcombank sẽ nghiên cứu để có những điều chỉnh cần thiết trên cơ sở đảm bảo tính phù hợp với các quy định theo thông lệ quốc tế cũng như thực tiễn tại Việt Nam hướng tới bảo đảm tối đa quyền lợi của khách hàng.

Ngân hàng khẳng định, cho đến khi có thông báo mới, Nội dung thỏa thuận sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử vẫn có giá trị hiệu lực tức là chưa áp dụng Điều khoản, điều kiện mới từ ngày 10/5/2017 như thông báo trước đây.

Trước đó như chúng tôi đã phản ánh, những quy định mới mà Vietcombank dự kiến triển khai với dịch vụ ngân hàng điện tử dành cho khách hàng cá nhân có nhiều quy định trong đó được giới chuyên gia công nghệ và bảo mật cho rằng sẽ gây thiệt cho khách hàng, “đẩy khó” về phía khách hàng trong trường hợp xảy ra sự cố bảo mật.

Chẳng hạn, khách hàng không truy cập dịch vụ từ bất cứ thiết bị nào kết nối với hệ thống máy tính cục bộ (hay mạng LAN) nếu không bảo đảm rằng không ai khác có thể theo dõi hay sao chép việc truy cập của khách hàng. Đồng thời, khách hàng phải chịu trách nhiệm bảo đảm rằng thiết bị đầu cuối và các thiết bị khác mà khách hàng sử dụng để kết nối với các dịch vụ là không có và được bảo vệ chắc chắn khỏi virus cũng như các phần mềm máy tính gây hại…

Đến điều 10 về trách nhiệm của khách hàng với yêu cầu giao dịch gian lận, Vietcombank tiếp tục quy định “khách hàng cam kết chịu trách nhiệm cho tất cả các tổn thất và chi phí do các giao dịch gian lận đã được thực hiện, nếu khách hàng đã hành động thiếu cẩn trọng hoặc làm không đúng, không đầy đủ bất cứ nghĩa vụ bảo mật nào…”. Đáng lưu ý, các quy định này được Vietcombank ràng buộc về mặt pháp lý trong giao dịch cung cấp và sử dụng dịch vụ giữa khách hàng với NH.

Nhiều khách hàng đã phản ứng khi đọc các quy định mới này và cho rằng NH đang đẩy trách nhiệm về phía người dùng bởi thực tế, người dùng không thể giám sát được việc tài khoản, thông tin của mình có bị “theo dõi, sao chép” trong quá trình sử dụng dịch vụ NH điện tử.

Việc Vietcombank thông báo chưa áp dụng điều khoản mới sau khi nhận được phản hồi của khách hàng cho thấy nhà băng này đã có sự lắng nghe và cầu thị. Trong bối cảnh các ngân hàng phải cạnh tranh nhau gay gắt về khách hàng và dịch vụ thì động thái này của Vietcombank đã phần nào làm tăng thiện cảm của người dùng.

Tùng Lâm

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Vietcombank tăng giá USD thêm 30 đồng

Trong số các ngân hàng được chúng tôi khảo sát sáng nay, riêng Vietcombank là ngân hàng điều chỉnh tăng mạnh đồng bạc xanh nhất. Sáng nay, tỷ giá trung tâm cũng được Ngân hàng Nhà nước tăng thêm 5 đồng.

Sáng nay (8/5), tỷ giá trung tâm giữa Đồng Việt Nam (VND) và Đôla Mỹ (USD) được Ngân hàng Nhà nước công bố ở mức 22.358 đồng, tăng 5 đồng so với cuối tuần qua.

Với biên độ +/-3% đang được áp dụng, tỷ giá trần mà các ngân hàng được áp dụng hôm nay là 23.028 VND/USD và tỷ giá sàn là 21.687 VND/USD.

Trong khi đó tại một số ngân hàng thương mại, đồng USD cũng đang được điều chỉnh tăng mạnh. Ngân hàng Vietcombank đã tăng thêm 20 đồng ở chiều mua và tăng 30 đồng ở chiều bán so với chốt phiên thứ Bảy lên 22.710-22.790 đồng/USD.

Vietinbank mua – bán USD giá 22.695 – 22.765 đồng/USD, tăng 5 đồng chiều mua vào, giảm 5 đồng chiều bán ra.

Tại nhóm ngân hàng cổ phần, ACB và Eximbank đang giao dịch ở mức: 22.700-22.770 đồng, chưa thấy có sự điều chỉnh so với cuối tuần trước.

Mai Ngọc

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Giá vàng tăng nhẹ sau kết quả bầu Tổng thống Pháp

Mở cửa giao dịch sáng đầu tuần, giá mua bán vàng miếng trong nước tăng khoảng 50.000 đồng mỗi lượng. Khoảng cách chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới tiếp tục duy trì ở mức 2,85 triệu đồng/lượng.

Sáng nay, Công ty VBĐQ DOJI niêm yết giá vàng miếng ở mức 36,54-36,62 triệu đồng/lượng, tăng so với chốt phiên trước 50 nghìn đồng/ lượng ở cả chiều mua và chiều bán.

Giá vàng miếng SJC được niêm yết tại Công ty VBĐQ Phú Nhuận (PNJ) ở 3 khu vực TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ ở mức giá 36,43 – 36,64 triệu đồng/lượng, giá mua vào và giá bán ra khá ổn định so với phiên giao dịch cuối tuần qua. Còn tại thị trường Hà Nội, giá vàng miếng SJC được niêm yết ở mức 36,53 - 36,61 triệu đồng/lượng, giá mua vào tăng 60 nghìn đồng/lượng và giá bán ra tăng 20 nghìn đồng/lượng so với cuối tuần qua.

Thị trường vàng miếng trong những ngày cuối tuần khá ổn định và không có nhiều sự biến động bất thường, đa số nhà đầu tư tham gia thị trường là các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Theo ghi nhận của PNJ, tổng lượng giao dịch vàng miếng tại PNJ trong những ngày cuối tuần đạt hơn 210 lượng, trong đó tỷ lệ mua vào chiếm 38% và tỷ lệ bán ra chiếm 62%, nhìn chung đa số vẫn chỉ là các giao dịch nhỏ lẻ tại khu vực TP. Hồ Chí Minh là chủ yếu.

Mở cửa phiên giao dịch sáng nay, giá vàng giao dịch tại thị trường châu Á ở mức 1.230,1 USD/ounce, khá ổn định so với chốt phiên giao dịch cuối tuần ở mức 1.229 USD/ounce. So với đầu tuần trước giá vàng thế giới trong tuần này có sự giảm mạnh gần 40 USD, tương đương hơn 3,1% (giá vàng trong phiên giao dịch ngày 02/05 ở mức 1.270 USD/ounce).

Khoảng cách chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới tiếp tục duy trì ở mức 2,85 triệu đồng/lượng.

Nguyên nhân giá vàng chỉ biến động nhẹ là do tình hình địa chính trị trên thế giới đã có sự dịu bớt và kết quả của cuộc bầu cử tổng thống Pháp đúng như dự đoán của các nhà đầu tư khi ông Macron giành được chiến thắng trước ứng cử viên là bà Le Pen.

Theo cuộc khảo sát của Kitco về giá vàng trong tuần này, tại phố Wall Street chỉ có 37% chuyên gia cho rằng giá vàng sẽ tăng trong tuần này và tại Main Street cũng chỉ có 48% số phiếu cho rằng giá vàng sẽ tăng trở lại trong tuần này.

Mai Ngọc

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Moody’s cảnh báo ngân hàng Việt tiếp tục thiếu vốn

Moody’s ước tính, toàn bộ hệ thống ngân hàng bị thiếu hụt vốn khoảng 9,5 tỷ USD tính đến cuối năm 2016, tương đương 4,6% GDP.

Moody’s Investors Service vừa ra báo cáo cho biết ngân hàng Việt Nam sẽ đối mặt với tình trạng thiếu vốn trong vòng 12-18 tháng tới, và tình trạng này vẫn tiếp tục là một gánh nặng tín dụng chủ yếu đối với ngành ngân hàng.

Moody’s định nghĩa khoản hụt vốn này là lượng vốn bên ngoài ngân hàng cần để đưa các tỷ lệ vốn cấp 1 về mức 8% sau khi các ngân hàng sử dụng nguồn dự phòng cho lỗ và nợ xấu, đồng thời trích lập dự phòng cho tất cả lượng trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành.

Ước tính này của Moody’s dựa trên các ngân hàng được cơ quan này xếp hạng tín nhiệm, chiếm 53% tổng tài sản của hệ thống ngân hàng tính đến cuối năm 2016.

“Tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh của các ngân hàng sẽ làm trầm trọng hơn tình trạng hụt vốn, dựa trên kịch bản cơ sở của chúng tôi cho tăng trưởng kinh tế mạnh của Việt Nam trong vòng 12 đến 18 tháng tới”, Daphne Cheng, chuyên gia phân tích tại Moody’s, cho biết.

Moody’s dự báo tăng trưởng GDP thực của Việt Nam ở mức 6,4% trong năm nay và năm 2018, so với mức 6,2% trong năm 2016. Trong khi đó, tín dụng được dự báo tăng trưởng 26% trong năm 2017 và 2018.

Moody’s ước tính, toàn bộ hệ thống ngân hàng bị thiếu hụt vốn khoảng 9,5 tỷ USD tính đến cuối năm 2016, tương đương 4,6% GDP.

Moody’s cũng cho biết thêm, hệ thống ngân hàng sẽ chịu một lượng thiếu vốn ước tính từ 5,1 đến 6,1 tỷ USD tính đến cuối năm nay, tương đương 2,5%-3,0% GDP, nếu không có đột biến nào trong tỷ lệ nợ xấu và thu nhập lõi của ngân hàng.

Chuyên gia Cheng của Moody’s nhận định rằng khả năng tạo vốn của ngân hàng Việt vẫn yếu, do tỷ suất NIM thấp, thu nhập từ phí thấp, và gánh nặng trích lập lớn. “Trong bối cảnh này, phải mất nhiều năm thì hệ thống ngân hàng mới có thể lấp khoảng thiếu hụt vốn thông qua việc tự tạo vốn”.

Cuối tháng trước, Moody’s ra thông báo giữ nguyên xếp hạng tín nhiệm đối với trái phiếu không đảm bảo có độ ưu tiên cao và xếp hạng nhà phát hành của Việt Nam ở mức B1, đồng thời điều chỉnh triển vọng xếp hạng từ “Ổn định” lên “Tích cực”.

Theo Minh Tuấn

BizLIVE

Đọc tiếp »

Thứ Sáu, 7 tháng 4, 2017

Ông Lê Trọng Trí thôi làm Phó Tổng giám đốc Sacombank

Ông Lê Trọng Trí là con rể ông Trầm Bê.

Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank - STB) thông báo về việc thay đổi nhân sự cấp cao.

Theo đó, ông Lê Trọng Trí thôi giữ chức vụ Phó tổng giám đốc Sacombank kiêm Trưởng phòng hành chánh quản trị chuyển sang làm chuyên viên cấp cao thuộc Văn phòng HĐQT kể từ ngày 4/4.

Được biết ông Lê Trọng Trí là con rể ông Trầm Bê. Trước đó, ngày 24/2, ông Trầm Bê và con trai ông là Trầm Khải Hòa cũng đã thôi tham gia quản trị và điều hành tại ngân hàng.

Ngọc Toàn

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Novaland bỏ tham gia tái cơ cấu Sacombank

Nhà đầu tư lớn xác nhận đã rút kế hoạch xin tham gia tái cơ cấu Sacombank...

Chiều tối 5/4, ông Bùi Thành Nhơn, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Novaland Group xác nhận với VnEconomy đã chính thức xin rút, không tham gia đề án tái cơ cấu Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank).

Trước đó, tập đoàn lớn về bất động sản này đã có tờ trình gửi đến Ngân hàng Nhà nước xin tham gia đề án tái cơ cấu Sacombank, với những kế hoạch dự kiến cơ bản.

Cụ thể, thông tin đề cập trên tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn ngày 31/3 vừa qua cho biết, Novaland Group đề xuất mua 20% cổ phần của Sacombank, cũng như trù tính cả kế hoạch nhân sự tại ngân hàng này sau khi được xét duyệt và tham gia chính thức, và một số đề xuất khác.

Tính đến 1/12/2016, tổng số vốn điều lệ của tập đoàn Novaland là 5.962 tỷ đồng. Theo báo cáo tài chính hợp nhất 9 tháng đầu năm 2016, tổng tài sản tập đoàn này đạt 32.480 tỷ đồng; mức doanh thu thuần là 7.176 tỷ đồng, vượt 6,55% so với kế hoạch doanh thu cả năm 2016; lợi nhuận sau thuế đạt 1.561 tỷ đồng, tương ứng 94,61% so với kế hoạch cả năm 2016.

Với thông tin xin rút nói trên, trước thềm đại hội đồng cổ đông thường niên sắp tới của Sacombank (dự kiến tổ chức vào 28/4), hiện chưa có thông tin chính thức về tổ chức hoặc nhà đầu tư lớn và mới nào sẽ thực sự hoặc được xét duyệt tham gia vào đề án tái cơ cấu ngân hàng này.

Kế hoạch đầu tư hơn 20.000 tỷ đồng từ một nhóm nhà đầu tư khác vào Sacombank, được một số thông tin đề cập gần đây, cũng không được Ngân hàng Nhà nước xác nhận, cho đến thời điểm này. Bởi theo lý giải của đại diện cơ quan này, kế hoạch đầu tư hay giao dịch của nhà đầu lớn hay nhỏ hiện đều phải tuân thủ, cũng như đã được pháp luật quy định trên thị trường, nhất là về các giới hạn tỷ lệ sở hữu.

Trong khi đó, tại thông cáo ngày 24/2/2017, Ngân hàng Nhà nước cho biết đã chỉ đạo Sacombank khẩn trương tổ chức đại hội đồng cổ đông trong tháng 4/2017 để kiện toàn bộ máy quản trị, điều hành, thông qua các vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông, tiếp tục triển khai các giải pháp tái cơ cấu đã được phê duyệt sau khi sáp nhập Ngân hàng Phương Nam (Southern Bank).

Cũng sau khi sáp nhập Southern Bank, tình hình tài chính của Sacombank đã thay đổi.

Ngân hàng này đối diện với áp lực tỷ lệ nợ xấu cao (tới 5,53% tính đến cuối 2016), cùng một lượng lớn nợ xấu đã bán sang VAMC; bên cạnh đó là quy mô các khoản phải thu 17.352 tỷ đồng, các khoản lãi và phí phải thu lên tới 26.389 tỷ đồng (đến cuối 2016).

Theo Minh Đức

Vneconomy

Đọc tiếp »

Làm ăn khấm khá hơn trong năm qua, SeABank trả thu nhập nhân viên 12,76 triệu đồng/tháng

Tiền lương trung bình của mỗi nhân viên SeABank trong năm qua là 12,63 triệu đồng/tháng, tăng 1,26 triệu đồng/tháng so với năm trước. Thu nhập bình quân là 12,76 triệu đồng/tháng/người, tăng 1,34 triệu đồng.

Theo BCTC đã được kiểm toán của Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank), tính đến thời điểm 31/12/2016, tổng tài sản của ngân hàng đạt 103 nghìn tỷ đồng, tăng 22% so với thời điểm đầu năm.

Cho vay khách hàng đạt gần 59 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng 37%. Tiền gửi của khách hàng đạt 72 nghìn tỷ đồng, tăng 26%.

Kết thúc năm 2016, ngân hàng ghi nhận 145,8 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước. Lợi nhuận tăng mạnh do ngân hàng tăng trưởng mạnh thu nhập lãi thuần. Cụ thể, năm 2016 ngân hàng đạt 1.843 tỷ đồng thu nhập lãi thuần, tăng 60% so với năm 2015.

Tuy nhiên trong năm qua ngân hàng đã phải tăng chi phí hoạt động và đặc biệt là trích lập dự phòng rủi ro tín dụng tăng mạnh lên 648 tỷ đồng, trong khi năm trước chỉ là 93 tỷ đồng.

Về chất lượng tín dụng, tổng số nợ xấu của ngân hàng cuối năm 2016 là 1.003 tỷ đồng, tăng 64% so với năm 2015 và chiếm tỷ lệ 1,7% trên tổng dư nợ cho vay. Ngoài ra, ngân hàng còn 745 tỷ đồng nợ tồn đọng cần xử lý. Ngân hàng cho biết các khoản cho vay với Tổng công ty công nghiệp tàu thủy (trước đây là Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam – Vinashin) và Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam (Vinalines) đang được phân loại nợ và trích lập dự phòng theo chỉ đạo của cơ quan quản lý Nhà nước.

Ngân hàng hiện có dư nợ cho vay bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy lớn nhất với 12,4 nghìn tỷ; sau đó là hoạt động làm thuê hộ gia đình và công nghiệp chế biến, chế tạo với dư nợ trên 7 nghìn tỷ. SeABank cho vay hoạt động kinh doanh BĐS là 3,7 nghìn tỷ, không thay đổi đáng kể so với năm trước.

Theo thông tin của ngân hàng, trong năm 2016, tổng số cán bộ, công nhân viên của SeABank là 2.661 người, tăng hơn 100 người so với năm trước. Tổng quỹ lương là 403 tỷ đồng, tăng 17%. Tiền thưởng cho nhân viên là gần 4 tỷ đồng, tăng gấp đôi so với cùng kỳ.

Tiền lương trung bình của mỗi nhân viên trong năm qua là 12,63 triệu đồng/tháng, tăng 1,26 triệu đồng/tháng so với năm trước. Thu nhập bình quân là 12,76 triệu đồng/tháng/người, tăng 1,34 triệu đồng.

Kim Tiền

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Lựa chọn nào của Sacombank trước nguy nan?

Sacombank hẳn là một trong những ngân hàng lo nhất trong đợt biến động lãi suất vừa qua...

Như đề cập ở bản tin trước trên VnEconomy, nhà đầu tư lớn là Novaland đã rút đề nghị được tham gia đề án tái cơ cấu Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank). Nhóm nhà đầu tư khác, trong đó có nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị trước đây là ông Đặng Văn Thành cũng có trở ngại.

Vậy, Sacombank còn những lựa chọn nào, khi đại hội đồng cổ đông quan trọng đã gần kề theo kế hoạch dự kiến (ngày 28/4)?

Xét duyệt chặt chẽ

Trước hết, từ cuối tháng 3 vừa qua, Novaland gây chú ý với thông tin xin tham gia đề án tái cơ cấu nói trên, cùng đề xuất mua 20% cổ phần của Sacombank.

Điểm đầu tiên được chú ý: nguồn lực của tập đoàn này như thế nào, trong khi quan điểm xuyên suốt của Ngân hàng Nhà nước trong quá trình tái cơ cấu hệ thống là nhà đầu tư phải có nguồn tiền thực, không ảo qua vay mượn.

Tập đoàn này đã niêm yết, thông tin tài chính công khai và yếu tố nguồn tiền được dẫn giải trong báo cáo tài chính. Nhưng dù nguồn “tiền tươi” hạn chế, thì lại có điểm kết nối khác đáng chú ý: đề xuất của Novaland đi cùng với cá nhân ông Bùi Thành Nhơn, Chủ tịch Hội đồng Quản trị. Tiềm lực riêng của vị doanh nhân này là miếng ghép đáng chú ý.

Thứ nữa, nếu đề xuất trên được chấp thuận, thì vốn điều lệ của Sacombank cũng không bổ sung để tăng thêm, vì không phải phát hành thêm mà qua nhận chuyển nhượng từ cổ đông hiện hữu, cụ thể là họ muốn mua ở phần VAMC đang nhận uỷ quyền.

Tuy nhiên, cuối cùng Novaland đã rút lại ý định trên. Hiện chưa có các dẫn giải cụ thể về nguyên do.

Sau khi Novaland chính thức rút, sự chú ý về khả năng thay đổi và một lựa chọn cho đề án tái cơ cấu Sacombank tập trung về nhóm nhà đầu tư thứ hai, gồm nhà đầu tư nước ngoài Evercore Group, Redsun Capital Limited và ông Đặng Văn Thành, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Thành Thành Công (cũng là người gắn bó ở vị trí cao nhất tại Sacombank nhiều năm trước).

Tuy nhiên, để trở thành cổ đông lớn tham gia tái cơ cấu Sacombank, bằng việc nắm giữ các vị trí quản trị, điều hành cao cấp, nhóm nhà đầu tư này phải qua được cửa xét duyệt của Ngân hàng Nhà nước - một quy định bất di bất dịch trước khi bầu chọn cơ cấu nhân sự cao cấp của bất kỳ ngân hàng nào.

Còn về phía Ngân hàng Nhà nước, quan điểm đã rõ. Tại hội nghị triển khai nhiệm vụ toàn ngành ngân hàng đầu năm nay, Thống đốc Lê Minh Hưng đã nhấn mạnh nguyên tắc trong thực hiện tái cơ cấu. Đó là thu hút các nhà đầu tư có tiềm lực, có nguồn vốn thực mà không phải từ vay mượn. Nhưng, có nguồn tiền thực và tiềm lực mạnh chưa hẳn đã đủ điều kiện tham gia tái cơ cấu, xét ở việc quản trị điều hành ngân hàng, mà đó còn phải là những nhà đầu tư có kinh nghiệm trong ngành.

Và ngay cả khi hội đủ những tiêu chí trên cũng chưa chắc đã được lựa chọn.

Cũng tại hội nghị đó, Thống đốc đã nhấn mạnh: “Sẽ có những quy định khắt khe hơn với người tham gia điều hành ngân hàng. Ví dụ như anh phải chứng minh chi tiết rõ ràng nguồn gốc tiền đầu tư mua cổ phần vào ngân hàng. Nếu vi phạm ở mức độ nào đó anh vĩnh viễn không được điều hành ngân hàng nữa”.

Cụ thể hóa định hướng trên, Ngân hàng Nhà nước vừa có bản dự thảo, trong đó nhấn mạnh yêu cầu sửa đổi, bổ sung điều 50 Luật các tổ chức tín dụng về tiêu chuẩn, điều kiện đối với các chức danh chủ tịch hội đồng quản trị/hội đồng thành viên, thành viên hội đồng quản trị/hội đồng thành viên, thành viên ban kiểm soát, tổng giám đốc của các tổ chức tín dụng theo hướng chặt chẽ hơn.

Nguyên do của yêu cầu trên, việc xét xử các đại án trong ngành thời gian qua làm nổi lên vấn đề năng lực và rủi ro đạo đức của người quản trị, điều hành tại một số tổ chức tín dụng. Và hướng siết chặt lại là một khi anh có vết vi phạm thì rất khó quay trở lại ngành, nhất là ở các vị trí lãnh đạo cao cấp.

Cũng tại hội nghị toàn ngành những năm gần đây, lãnh đạo Chính phủ muốn lưu ý việc xử lý, loại trừ tình trạng các cổ đông lớn thao túng, lũng đoạn, biến ngân hàng thành “của nhà” với các công ty sân sau, lợi ích nhóm và sở hữu chéo… Theo đó, không hẳn cứ có tiền, có nghề là đã có thể vào thâu tóm ngân hàng, nhất là khi Ngân hàng Nhà nước đã có uỷ quyền tỷ lệ sở hữu rất lớn cũng nguyên tắc xét duyệt khắt khe hiện nay.

Thử thách rất lớn

Đến thời điểm này vẫn chưa có thông tin cuối cùng về việc sẽ có nhà đầu lớn và mới hay không tham gia vào đề án tái cơ cấu Sacombank. Nếu có, thử thách sẽ rất lớn, do gánh nặng các vấn đề tài chính tại đây, chủ yếu do chuyển giao từ sáp nhập Ngân hàng Phương Nam (Southern Bank).

Một dẫn giải cụ thể cho thấy, trong đợt biến động của lãi suất huy động VND vừa qua, Sacombank hẳn là một trong ngân hàng lo lắng nhất.

Bởi lẽ, cứ mỗi phần trăm lãi suất tăng lên, chi phí hoạt động ngân hàng sẽ càng thêm nặng nề để nuôi những khoản vốn đã cho vay mà không hoặc chưa thu hồi về đúng hạn được, cũng như đối với những tài sản không sinh lời.

Giả dụ với khối tài sản không sinh lời từ 90-95 nghìn tỷ đồng, lãi suất huy động bình quân 5%/năm thì chi phi lãi ngân hàng bị ảnh hưởng lên tới 4.500 - 5.000 tỷ đồng. Lãi suất càng tăng, chi phí bị ảnh hưởng này càng lớn, mà quy mô lợi nhuận thông thường tại Việt Nam chưa có ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân nào đạt được trong những năm qua để có thể cân đối tốt.

Sau sáp nhập Southern Bank, Sacombank nhận về lượng lớn số tài sản không sinh lời. Đây cũng là một cơ sở chính để khối phân tích của Công ty Chứng khoán Tp.HCM (HSC) mới đây rất thận trọng khi đánh giá: Sacombank gần như sẽ không có lợi nhuận năm 2017, thậm chí phải rất nỗ lực để tránh ghi nhận lỗ trong vài năm tới và sẽ tiếp tục tăng trưởng lợi nhuận không đáng kể trong 5-10 nữa, cũng như suốt giai đoạn này khó có được cổ tức.

Báo cáo tài chính và các giải trình liên quan cuối 2016 của Sacombank cũng nêu rõ thử thách rất lớn ở gánh nặng nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu cuối 2016 là 5,53%. Chưa dừng lại, ngân hàng cho biết đã bán lượng rất lớn nợ xấu cho VAMC, với số dư lên đến 37.300 tỷ đồng trái phiếu do đầu mối mua nợ này phát hành.

Và sẽ là gánh nặng lớn hơn nữa về nợ xấu, do tiềm ẩn trong tổng lãi dự thu tích tụ, dồn lại và chuyển giao từ Southern Bank tính đến cuối 2016 là 22.881 tỷ đồng. Áp lực ở chỗ, nếu thực hiện thoái lãi dự thu theo quy định thì chắc chắn nguy cơ lỗ hoặc lợi nhuận kém là khó tránh.

Thử thách tại Sacombank với những điểm chính về vấn đề tài chính nói trên trở thành nguy nan, vì nếu cộng hưởng giữa lượng tài sản không sinh lời cao, hiệu quả sinh lời bị suy giảm, áp lực nếu phải thoái lãi dự thu với nợ xấu tiềm ẩn trong đó, đi cùng là chi phí trích lập dự phòng tăng lên, có thể ảnh hưởng sâu sắc đến các chỉ số an toàn hoạt động theo tiêu chuẩn quy định.

Trọng tâm của quyết sách

Sau sáp nhập Southern Bank, thay đổi lớn nhất và có tính quyết định nhất đến thời điểm này tại Sacombank là Ngân hàng Nhà nước đã nhận uỷ quyền (qua VAMC) tỷ lệ sở hữu lớn của nhóm cổ đông với đại diện là ông Trầm Bê. Theo đó, cơ quan quản lý này có điều kiện để giám sát, kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động của Sacombank cũng như những rủi ro tiềm ẩn.

Là ngân hàng thương mại có quy mô tổng tài sản lên tới trên 333.000 tỷ đồng, Sacombank có vị trí ưu tiên hàng đầu trong các quyết sách và kế hoạch tái cơ cấu của Ngân hàng Nhà nước hiện nay.

Phương án tái cơ cấu đã được chuẩn bị và sẽ dần định hình rõ hơn qua đại hội đồng cổ đông dự kiến sắp tới, nếu diễn ra thành công. Trong đó, cho đến thời điểm này không có bất kỳ xác nhận và khẳng định nào về sự tham gia của hai nhóm nhà đầu tư nói trên.

Thay vào đó, theo tìm hiểu của VnEconomy, trước mắt vẫn là cơ cấu cổ đông hiện hữu, triển khai tái cơ cấu Sacombank vẫn tự chủ động và dựa vào nội lực tự thân, tự quyết cho hoạt động của mình. Và dĩ nhiên là có sự hỗ trợ, bám sát quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước.

Lựa chọn chủ yếu của Sacombank hiện nay chủ yếu là hướng đến kiện toàn cơ cấu nhận sự quản lý, điều hành - cơ cấu đang chờ đợi một chỉnh thể thống nhất, minh bạch hơn nữa, với những người dẫn đầu có nghề và thực vì lợi ích ngân hàng hơn là lợi ích và quyền lực cá nhân, cũng như ngăn chặn những con mắt nhắm vào tiền gửi của dân tại ngân hàng. Đây chắc chắn là điểm, cũng là trách nhiệm, mà Ngân hàng Nhà nước sẽ rà soát và xét duyệt kỹ để gửi gắm ở cơ cấu mới.

Điểm thuận lợi là, dù nặng gánh nguy nan các vấn đề tài chính, Sacombank với vị thế và chất lượng trước đây vẫn còn đó. Vẫn là một ngân hàng bán lẻ hàng đầu của hệ thống. Và đặc biệt là niềm tin của người gửi tiền, của đối tác vẫn còn đó.

Minh chứng cụ thể, tăng trưởng tiền gửi và tổng tài sản năm qua vẫn tăng trưởng tốt, đặc biệt riêng hệ thống Sacombank trước đây có tốc động tăng trưởng tiền gửi mạnh mẽ mà ít có ngân hàng nào đạt được (đạt tới 35,7% so với thời điểm sáp nhập).

Nếu tái cơ cấu tự thân với nguồn lực hiện tại, điều cần cho lựa chọn của Sacombank tới đây là một cơ cấu lãnh đạo chuẩn mực như trên, cùng cơ chế chính sách hỗ trợ trong xử lý các vấn đề tài chính; và dĩ nhiên là cần thêm thời gian.

Theo Minh Đức

Vneconomy

Đọc tiếp »

Novaland lý giải việc bỏ tham gia tái cơ cấu Sacombank

“Trong thời gian chờ đợi, đã xuất hiện rất nhiều thông tin trái chiều gây bất lợi cho chúng tôi”...

Tập đoàn Novaland đã có lý giải cụ thể về nguyên do rút kế hoạch xin tham gia đề án tái cơ cấu Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank).

Quyết định trên đưa ra sau khi Novaland đã có ba tháng theo đuổi các đề xuất của mình.

Cụ thể, ngày 16/12/2016, tập đoàn này có văn bản gửi Ngân hàng Nhà nước xin tham gia đề án tái cơ cấu Sacombank. Đến ngày 18/3/2017, tập đoàn tiếp tục có văn bản và các thuyết minh kế hoạch cụ thể sẽ triển khai nếu được xét duyệt, trong đó có đề xuất mua 20% cổ phần ngân hàng, cũng như chuẩn bị ứng cử nhân sự quản trị, điều hành…

Nhưng, như VnEconomy đề cập ở bản tin trước, Novaland vừa có quyết định rút lại kế hoạch trên, không xin tham gia đề án tái cơ cấu Sacombank nữa.

Ông Bùi Thành Nhơn, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Novaland Group nhắc lại đánh giá của mình trong đề xuất trước đây rằng, tham gia tái cơ cấu Sacombank là một việc rất khó, rất phức tạp và sẽ mất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc; cần sự minh bạch, cần sự quyết tâm của toàn đội ngũ và phải được sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ.

“Trong thời gian chờ đợi sự phê duyệt, đã xuất hiện rất nhiều thông tin trái chiều gây bất lợi cho chúng tôi”, ông Bùi Thành Nhơn cho biết nguyên do.

Cho rằng Sacombank “đang trong giai đoạn cùng cực của sự khó khăn”, Chủ tịch Novaland khuyến nghị ngân hàng này đang rất cần người lái tàu tâm huyết gắn liền với nguồn vốn thật, cần nhóm quản lý chuyên nghiệp trong và ngoài nước thông hiểu việc tái cấu trúc ngân hàng tầm cỡ quốc tế, cần người có mối quan hệ hài hoà với tất cả các bên để tránh xung đột, cần người quy tụ được nhân tài về hợp sức kiên trì vực dậy ngân hàng.

“Với phương châm kinh doanh trung thực - minh bạch - thượng tôn pháp luật, chúng tôi cho rằng việc chung tay giúp sức với Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ tái cơ cấu Sacombank tuyệt đối không nên là một cuộc cạnh tranh để giành lợi ích ngắn hạn. Sacombank muốn phục hồi phải cần sự đồng lòng hỗ trợ của cả hệ thống”, ông Nhơn khuyến nghị.

Chủ tịch Novaland cũng cho biết thêm, do nhận thấy có nhiều yếu tố khó khăn xuất hiện, nên tập đoàn đã xin rút lại đề xuất tham gia tái cơ cấu Sacombank trình Ngân hàng Nhà nước trước đó.

Như trên, Novaland đã theo đuổi kế hoạch của mình ba tháng qua, và thu hút sự chú ý của thị trường thời gian gần đây.

Về tiềm lực tài chính, trong kế hoạch trình Ngân hàng Nhà nước, Novaland cập nhật quy mô vốn điều lệ hiện đã đạt 7.000 tỷ đồng, quy mô vốn hóa khoảng 2 tỷ USD. Và tham gia kế hoạch còn là tiềm lực tài chính của riêng cá nhân ông Bùi Thành Nhơn.

Ngoài ra, Novaland cho biết đã có các hoạt động huy động vốn tích cực trong vòng hai năm trở lại đây.

Cụ thể, năm 2015, tập đoàn đã phát hành gần 50 triệu USD cổ phần ưu đãi chuyển đổi cho quỹ đầu tư VinaCapital, Dragon Capital và một công ty tài chính trong nước. Năm 2016, tập đoàn được tài trợ một khoản vay chuyển đổi trị giá 100 triệu USD từ Credit Suisse, là một tổ chức tài chính uy tín nước ngoài, trong đó 60 triệu USD đã được giải ngân trong tháng 7/2016.

Tháng 11/2016, tập đoàn đã hoàn thành đợt phát hành cổ phần riêng lẻ đạt mức huy động gần 120 triệu USD với sự tham gia của Dragon Capital, VinaCapital, GIC (Chính phủ Singapore), J.P. Morgan, RWC Partners, Duxton Asset Management, Công ty Quản lý Quỹ Đầu tư Việt Nam (VFM), Công ty Quản lý Quỹ Bản Việt…

Theo Minh Đức

Vneconomy

Đọc tiếp »