Thứ Tư, 14 tháng 9, 2016

Đường đi của 670 tỷ đồng từ ACB đến túi Huỳnh Thị Huyền Như

TAND TP Hà Nội cho biết, ngày 23/9 sẽ xét xử vụ án Huỳnh Thị Bảo Ngọc (SN 1972, ở TPHCM), nguyên Phó phòng Quản lý quỹ, Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trước đó, trong phiên tòa xét xử Nguyễn Đức Kiên tức Bầu Kiên năm 2014, TAND Hà Nội đã khởi tố vụ án lừa đảo với Bảo Ngọc ngay.

Theo cáo trạng, năm 2010, Thường trực HĐQT Ngân hàng ACB thống nhất chủ trương ủy thác cho các cá nhân gửi tiền VNĐ và USD tại các tổ chức tín dụng, giao kế toán trưởng tổ chức thực hiện. Tháng 6/2011, ACB phê duyệt hạn mức tín dụng ấn định tại Vietinbank là 1.500 tỷ đồng, thời hạn 6 tháng. Có 19 nhân viên của ACB được ủy thác số tiền trên, trong đó có 17 nhân viên thuộc Phòng Quản lý quỹ, do đó việc giao dịch được giao cho Trưởng phòng Huỳnh Thị Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc tiến hành thăm dò lãi suất tín dụng tiền gửi, đồng thời liên hệ với Huỳnh Thị Huyền Như (SN 1978, quyền Trưởng phòng Giao dịch Điện Biên Phủ, Vietinbank TPHCM) để mang tiền của ACB đi gửi tiết kiệm. Hai người thỏa thuận tiền của ACB sẽ được trả lãi suất 18,8 – 20%/năm. Lãi suất này bao gồm cả lãi suất "ngoài hợp đồng" 4,8 – 6%/năm, trong đó người gửi tiền hưởng 3,8 – 4%/năm, Ngọc hưởng 0,1-1,5%/năm). Ngọc bị cáo buộc không báo cáo lãnh đạo ACB việc Huyền Như trả "lãi suất ngoài hợp đồng" cho mình.

Kết quả, từ ngày 21/7/2011 đến 5/9/2011, Bảo Ngọc chỉ định 17 nhân viên gửi tiền và ký 32 hợp đồng ủy thác gửi tiền với ACB đồng thời ký 32 hợp đồng gửi tiền với Vietinbank TPHCM. Ngân hàng ACB đã chuyển gần 670 tỷ đồng vào tài khoản thanh toán của 17 nhân viên mở tại Phòng giao dịch Điện Biên Phủ, Vietinbank TPHCM.

Nhận được tiền, Huyền Như chuyển hơn 10 tỷ đồng vào tài khoản của nhân viên ACB để trả lãi suất chênh lệch ngoài hợp đồng; chuyển hơn 3,7 tỷ đồng vào tài khoản của Huỳnh Thị Chiêu Uyên (chị gái Bảo Ngọc) theo yêu cầu của Bảo Ngọc. Bà Uyên sau đó đã nộp gần 3,2 tỷ cho cơ quan chức năng.

Đáng chú ý, các hợp đồng giữa 17 nhân viên với Vietinbank đều có quy định "Bên nhận tiền gửi được tự động trích toàn bộ số tiền gửi sang tài khoản tiền gửi kỳ hạn, trả lãi sau". Các chủ tài khoản cũng ký các lệnh chi để chuyển từ tài khoản thanh toán sang tài khoản tiết kiệm. Tuy nhiên, Bảo Ngọc không yêu cầu 17 nhân viên lấy lại sổ tiết kiệm để quản lý. Lợi dụng các điều kiện thông thoáng do Bảo Ngọc tạo ra, Huyền Như chiếm đoạt gần 670 tỷ đồng của ACB. Cụ thể, Huyền Như làm giả 9 lệnh của 6 chủ tài khoản để chuyển gần 122 tỷ đồng sang tài khoản khác. Như còn lập 89 sổ tiết kiệm trị giá hơn 535 tỷ đồng nhưng không giao sổ cho các chủ thẻ. Sau đó, đối tượng giả lệnh chi, chữ ký của các chủ thẻ để thế chấp vay hoặc chuyển sang tài khoản khác rồi chiếm đoạt hơn 535 tỷ đồng.

Huỳnh Thị Huyền Như đã bị tuyên án chung thân năm 2015. Liên quan đến việc ủy thác gửi tiền của ACB, một loạt lãnh đạo cấp cao của ngân hàng này đã bị tuyên phạt về tội cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Trong đó, ông Nguyễn Đức Kiên (Bầu Kiên) lĩnh 18 năm tù, ông Lý Xuân Hải (cựu Tổng giám đốc ACB) lĩnh 8 năm tù. Ba phó chủ tịch HĐQT ACB gồm Lê Vũ Kỳ, Trịnh Kim Quang, Phạm Trung Cang bị phạt từ 3 - 5 năm tù; cựu Phó tổng giám đốc ACB Huỳnh Quang Tuấn nhận 2 năm tù.

Đáng chú ý, các hợp đồng giữa 17 nhân viên với Vietinbank đều có quy định "Bên nhận tiền gửi được tự động trích toàn bộ số tiền gửi sang tài khoản tiền gửi kỳ hạn, trả lãi sau". Các chủ tài khoản cũng ký các lệnh chi để chuyển từ tài khoản thanh toán sang tài khoản tiết kiệm. Tuy nhiên, Bảo Ngọc không yêu cầu 17 nhân viên lấy lại sổ tiết kiệm để quản lý. Lợi dụng các điều kiện thông thoáng do Bảo Ngọc tạo ra, Huyền Như chiếm đoạt gần 670 tỷ đồng của ACB.

Theo Xuân Ẩn

Tiền phong

Đọc tiếp »

Vẫn trông vào tín dụng

Những ngày này hệ thống ngân hàng dư thừa thanh khoản, lãi suất giữ ổn định, dự trữ ngoại hối tăng kỷ lục (hơn 38 tỷ USD).

Ngân hàng Nhà nước điều hành thị trường mở nhịp nhàng, đi kèm với bơm tiền ra mua ngoại hối là sử dụng nghiệp vụ hút tiền về qua phát hành tín phiếu; chưa kể các ngân hàng thương mại đã hoàn thành nhiệm vụ mua trái phiếu - đủ để Chính phủ có thể sử dụng nguồn vốn đó bất cứ lúc nào cho đầu tư công. Đó là mặt trước của tấm huy chương…

Còn phía sau, mổ xẻ cho thấy: Dù nền kinh tế đến thời điểm này hết tháng 8/2016, đã được hệ thống ngân hàng bơm ròng tới hơn 5 triệu tỷ đồng vốn, dù tín dụng rất cố gắng để đến với các lĩnh vực (đến ngày 23/8/2016, tín dụng nền kinh tế tăng 9,09% so với cuối năm 2015) nhưng rõ ràng thực tế, một bộ phận không ít doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn đang mong ngóng và chật vật xoay xở vốn. Rõ nữa là hệ thống ngân hàng vẫn phải "đỏ mắt" tìm khách tốt, rất muốn cho vay ra nhưng đến lúc này cũng ngậm ngùi từ chối lắc đầu.

Theo TS Alan Phạm, việc thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước siết chặt cảnh báo các lĩnh vực cho vay là phù hợp, bởi gánh nặng nợ xấu khiến các ngân hàng đang còn phải căng ra giải quyết. Tuy nhiên, hơn cả với trường hợp doanh nghiệp thực sự khó khăn, để làm thực, khối nhà băng ngoài cơ chế theo quy định, cần tăng thêm trách nhiệm, đó là phải có một đội ngũ nhân viên thẩm định giá trị doanh nghiệp để quyết định có nên cho vay không. Vấn đề nữa là chất lượng nhân viên của ngân hàng, ngoài thẩm định tín dụng, họ cần biết phân tích chất lượng doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp đó.

Cập nhật 7 tháng đầu năm cho thấy, đã có thêm hơn 62 ngàn doanh nghiệp mới được thành lập, đó là một tin vui. Còn tin buồn, trong một thống kê khác chỉ ra trong 6 tháng đầu năm qua, có tới 220 doanh nghiệp chết mỗi ngày. Dẫu số "sinh" cao hơn số "chết" và như biện minh của một lãnh đạo Bộ Kế hoạch Đầu tư, tính tỷ lệ cứ thực dương là được nhưng rõ ràng, không thể phủ nhận nhiều doanh nghiệp Việt chưa thực khỏe và sự sống còn của một nhóm không nhỏ, vẫn đang trông vào tín dụng.

Theo Minh triết

Tiền phong

Đọc tiếp »

Vàng sắp "thổi bay" mốc 36 triệu đồng/lượng

Mở cửa phiên giao dịch sáng hôm nay, giá vàng giảm mạnh từ 110 – 140 nghìn đồng/lượng và hiện một số doanh nghiệp đang mua vào với giá dưới mốc 36 triệu đồng/lượng.

Giá vàng miếng SJC niêm yết tại CTCP Vàng bạc đá quý Phú Nhuận (PNJ) sáng nay tại khu vực Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ ở cùng mức giá 36,00 – 36,20 triệu đồng/lượng, giảm 130 nghìn đồng/lượng so với phiên giao dịch cuối giờ chiều qua.

Tại thị trường Hà Nội, giá vàng miếng SJC đang được niêm yết tại công ty PNJ ở mức giá 36,07 – 36,15 triệu đồng/lượng, giảm 90 nghìn đồng/lượng so với cuối phiên giao dịch chiều hôm qua.

Trong khi đó, Công ty VBĐQ SJC niêm yết giá vàng miếng ở mức 35,94 – 36,22 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra), giảm 140 nghìn mua vào và 110 nghìn bán ra so với cuối phiên giao dịch hôm qua. Tập đoàn VBĐQ DOJI niêm yết ở mức 36,08 – 36,16 triệu đồng/lượng, giảm 130 nghìn đồng/lượng.

Trên thị trường thế giới, giá vàng ngày 13/9 giảm phiên thứ 5 khi USD mạnh lên cũng như bất ổn về việc liệu Fed có nâng lãi suất trong phiên họp tuần tới hay không.

Thị trường chứng khoán toàn cầu và giá năng lượng đều giảm khi đồng bạc xanh tăng 0,5%.

Cuối phiên giao dịch hôm qua, giá vàng giao ngay giảm 0,7% xuống 1.317,47 USD/ounce. Giá vàng giao tháng 12/2016 trên sàn Comex giảm 0,14% xuống 1.323,7 USD/ounce, ghi nhận phiên giảm thứ 5 liên tiếp.

Trên thị trường châu Á, giá vàng hiện đang xoay quanh mức 1.317 ounce. Quy đổi tương đương 35,48 triệu đồng/lượng, như vậy hiện tại vàng trong nươc đang cao hơn thế giới khoảng 740 nghìn đồng/lượng.

Tiến Phương

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Thiếu cơ chế, cho thêm tiền VAMC cũng không dám nhận

Chủ tịch HĐTV VAMC Nguyễn Quốc Hùng đã khẳng định như vậy với phóng viên Thời báo Ngân hàng khi bàn về câu chuyện VAMC có cần thiết phải sử dụng thêm vốn ngân sách để xử lý nợ xấu vào thời điểm này hay không.

Ông có thể cho biết kết quả hoạt động mua bán, xử lý nợ xấu của VAMC từ đầu năm đến nay?

Chủ tịch HĐTV VAMC Nguyễn Quốc Hùng: Tính đến ngày 13/9/2016, VAMC đã mua 421 khoản nợ của 314 khách hàng với số tiền 12.238 tỷ đồng. Bên cạnh mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt (TPĐB), VAMC tổ chức phân loại khách hàng để đánh giá khả năng thu hồi các khoản nợ, từ đó xây dựng phương án xử lý nợ đối với từng khoản.

Nhờ triển khai nhiều giải pháp, với sự phối hợp chặt chẽ giữa VAMC và các TCTD, từ đầu năm đến nay, VAMC thu hồi được 12.520 tỷ đồng.

Để hỗ trợ các TCTD trong giải quyết nợ xấu, Chính phủ đã có chỉ đạo VAMC xem xét trả lại cho các TCTD những khoản nợ mà họ có thể xử lý được. Do đó, đối với những khoản nợ TCTD thấy rằng có thể thu hồi được, VAMC ủy quyền hết. Trong quá trình xử lý nợ, nếu gặp khó khăn vướng mắc VAMC sẽ hỗ trợ. Sau này nếu TCTD thấy có thể tự xử lý được và muốn mua lại khoản nợ đã bán cho VAMC thì VAMC sẵn sàng bán lại bằng đúng nguyên giá.

Muốn xử lý nhanh, triệt để nợ xấu thì phải triển khai mạnh mua bán nợ theo giá thị trường

Còn phần chi phí trích lập dự phòng rủi ro (DPRR) cho các khoản nợ đã bán TCTD cũng được nhận lại đầy đủ. Như vậy, VAMC không lấy lãi đối với bất kỳ khoản nợ nào mua bằng TPĐB. Thực tế, đến thời điểm này VAMC đã bán lại cho TCTD gần 2.000 tỷ đồng nợ xấu nguyên giá. Qua đó có thể thấy, về cơ bản các TCTD được toàn quyền chủ động trong xử lý nợ xấu (XLNX).

Tất nhiên con số trên vẫn chưa như mong muốn của chúng tôi. Bởi như các bạn biết, VAMC đang gặp rất nhiều rào cản trong quá trình XLNX và NHNN đã trình Chính phủ những khó khăn vướng mắc để có hướng xử lý.

Còn kế hoạch mua nợ xấu theo giá thị trường thì sao, thưa ông?

Phải khẳng định mua nợ theo giá thị trường là mục tiêu trọng tâm trọng điểm của VAMC trong năm 2016 và chúng tôi rất muốn triển khai vì hiện VAMC được nâng vốn điều lệ lên 2.000 tỷ đồng. Nhưng quả thực việc đàm phán mua nợ theo giá thị trường lại hết sức khó khăn, đụng đâu cũng thấy vướng.

Ví như, các TCTD bán nợ cho VAMC nhận TPĐB có thời gian trích lập DPRR 5-10 năm. Nếu bán theo giá thịt trường thì họ phải trích ngay ít nhất 80 – 90% khoản nợ đó, thậm chí phải trích hết 100%. Như vậy, liệu TCTD có đủ khả năng tài chính để trích lập?.

Không chỉ đảm bảo về trích lập DPRR đầy đủ, các TCTD xác định bán nợ theo giá thị trường đảm bảo ít nhất bằng giá nợ gốc. TCTD cũng chỉ muốn bán hòa vốn bởi phần thiếu hụt không biết tính toán ra sao, có bị quy trách nhiệm hình sự hóa hay không?. Vì thế, họ tỏ ra e ngại khi bán nợ theo giá thị trường cho VAMC.

Vấn đề nữa đặt ra VAMC mua nợ theo giá thị trường thì phải bán theo giá thị trường. Nhưng muốn bán thì phải có thị trường. Nhưng giờ thị trường chưa có. Mà mua về để quản lý, theo dõi nếu không may thị trường biến động thì lỗ từ TCTD lại chuyển sang VAMC. Mà quan điểm của VAMC tuy kinh doanh không vì mục tiêu lợi nhuận nhưng phải bảo toàn được vốn. Nên chúng tôi cũng hết sức thận trọng, hạn chế tối đa việc bán nợ dưới giá vốn. Cho nên việc VAMC mua nợ và TCTD bán nợ theo giá thị trường bằng giá gốc đang là vấn đề cốt lõi gây khó khăn trong việc mua bán nợ theo giá thị trường.

Do đó, vấn đề ở đây không phải là cần có bao nhiêu tiền mà thực tế VAMC cần có cơ chế với hành lang pháp lý rõ ràng. Muốn mua bán nợ theo giá thị trường phải có phương thức định giá giá trị khoản nợ và cần có một tiêu thức của một cơ quan trung gian như Bộ Tài chính có hướng dẫn về phương pháp định giá, tiêu thức chung để mọi người nhìn vào đánh giá được thực trạng.

Thị trường mua bán nợ phải được vận hành. Đặc biệt, hành lang pháp lý đảm bảo quy rõ trách nhiệm mua bán dưới giá gốc thế nào cũng như trường hợp thoái vốn Nhà nước, dưới giá gốc có vấn đề gì không?. Có cho phép TCTD bù đắp quỹ dự phòng rủi ro vào phần thiếu hụt không?. Phần thiếu hụt trong trích lập DPRR, TCTD có được trích trong nhiều năm để giảm áp lực về tài chính?

Một vấn đề quan trọng nữa đó là cơ chế xử lý tài sản đảm bảo phải thực hiện nghiêm, kiên quyết. Nếu không nghiêm, VAMC mua về không thu hồi được TSĐB, không phát mại mà suốt ngày đi kiện tụng, nợ đọng một chỗ như vậy thì có tiền VAMC cũng không dám mua. Mục tiêu của VAMC là không để đồng vốn ngân sách đọng lại một chỗ được mà phải đảm bảo quay vòng vốn.

Ngay cả đối với người đi vay cũng cần phải có cơ chế pháp lý rõ ràng để làm sao họ hiểu khi không trả được nợ phải bàn giao tài sản cho chủ nợ và phải chấp nhận định giá tài sản đảm bảo theo thị giá. Đó là quy luật của cuộc chơi. NH phải nhận nợ đến đồng cuối cùng thì khách hàng cũng phải trả nợ như vậy. Trừ trường hợp người vay không còn gì nữa mới xem xét miễn, giảm lãi nhưng dứt khoát phải trả gốc.

Người vay phải có trách nhiệm trả nợ đến đồng cuối cùng. Lúc này, nếu dùng tiền ngân sách để XLNX thì mọi người sẽ hiểu là lấy tiền của dân người nghèo chia cho người giàu nhởn nhơ đi xe sang, nhà đẹp. Muốn vậy phải có hành lang pháp lý nghiêm minh đối với người đi vay, thậm chí phải hình sự hóa với con nợ vô trách nhiệm, coi thường pháp luật.

Nhưng đang có đề xuất cần thiết phải bơm thêm tiền tươi thóc thật để VAMC mua nợ xấu theo giá thị trường giải quyết nhanh số nợ xấu tồn đọng?

Đúng là muốn xử lý nhanh, triệt để nợ xấu thì phải triển khai mạnh mua bán nợ theo giá thị trường. Và tiền tươi thóc thật rất quan trọng. Tôi được biết, Bộ Kế hoạch đầu tư xây dựng phương án sử dụng vốn ngân sách để xử lý nợ xấu. Đây là ý tưởng hay nhưng nó ở thì tương lai. Theo tính toán của VAMC từ năm 2018 - 2020 dứt khoát thị trường mua bán nợ sẽ hoạt động sôi nổi. Vì lúc đó TCTD đã trích DPRR tối thiểu 50 - 60% giá trị khoản nợ rồi. Phần còn lại họ phải đẩy để thu hồi đủ giá trị khoản nợ, và có thể lãi khi thị trường hồi phục.

Nếu các kiến nghị VAMC được thông qua hành lang pháp lý thông thoáng điều kiện mua bán nợ sẽ tốt hơn. Khi đó nếu được cấp vốn ngân sách VAMC dùng tiền đó để mua các khoản nợ xấu. Và biến khoản nợ xấu thành khoản tiền thật và có giá trị ít nhất bằng hoặc hơn khoản đã mua. Như vậy dù có được cấp vốn ngân sách để XLNX thì không phải vốn đó mất đi mà thực chất là ứng trước cho VAMC một khoản tiền để mua và bán khoản nợ xấu ra thị trường.

Mặc dù đề án trên là đúng đắn nhưng như phân tích ở trên, nếu không có cơ chế tháo gỡ vướng mắc về hành lang pháp lý thì có cho thêm tiền VAMC không dám nhận. Vì khi mà quyền con nợ vẫn to hơn chủ nợ thì có tiền cũng không thể nào giải quyết được nợ xấu.

Xin cảm ơn ông!

Theo Thanh Huyền thực hiện

Thời báo Ngân hàng

Đọc tiếp »

Công ty Quản lý quỹ Bảo Việt mua vào 3,6 triệu cổ phần STG

Trước giao dịch BVF không sở hữu cổ phiếu STG nào.

Công ty TNHH Quản lý quỹ Bảo Việt (BVF) vừa có báo cáo giao dịch cổ phiếu STG của CTCP Kho vận Miền Nam (Sotrans). Theo đó, ngày 7/9 vừa qua, công ty này đã mua 3,6 triệu cổ phiếu STG tương ứng 4,21% số lượng cổ phiếu có quyền biểu quyết đang lưu hành của Sotrans. Trước giao dịch BVF không sở hữu cổ phiếu STG nào.

Trước đó mấy ngày, ngày 31/8, Tổng công ty Bảo Việt Nhân Thọ (BVLIFE) đã mua vào hơn 6 triệu cổ phiếu STG và trở thành cổ đông lớn của Sotrans. Trước giao dịch BVLIFE cũng không sở hữu cổ phiếu STG nào.

Công ty TNHH Quản lý quỹ Bảo Việt và Tổng công ty Bảo Việt Nhân Thọ đều là công ty con do Tập đoàn Bảo Việt (BVH) sở hữu 100%.

Hiện Sông Đà 909 vẫn đang là cổ đông lớn nhất nắm giữ 24,2% vốn của Sotrans. Tuy nhiên, mới đây, Tổng công ty Thiết bị Điện Việt Nam (Gelex) đang lên kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh sang lĩnh vực logistic và đích nhắm là Sotrans. Gelex dự kiến sẽ bỏ ra khoảng 1.500 tỷ đồng để đầu tư vào lĩnh vực logistic. Đồng thời dự kiến sẽ mua lại cổ phần chi phối CTCP Kho vận Miền Nam.

Thanh Mai

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Lãi suất nhích theo mùa làm ăn cuối năm

Sau một thời gian ngắn ổn định, nhiều ngân hàng đã đồng loạt tăng nhẹ lãi suất huy động khiến nhiều doanh nghiệp lo lắng lãi suất cho vay sẽ tăng theo trong khi đang bước vào cao điểm mùa làm ăn cuối năm.

Nhiều ngân hàng (NH) thừa nhận khó giữ được lãi suất (LS) cho vay ổn định trong những tháng cuối năm, do nhu cầu vay vốn làm ăn tăng, trong khi huy động vốn những tháng đầu năm tăng chậm hơn cho vay.

Đồng loạt tăng lãi suất

Ngân hàng Bản Việt vừa tăng LS tiền gửi, theo đó LS kỳ hạn 6 tháng tăng 0,1%/năm, lên 7,1%/năm, kỳ hạn 13 tháng LS tăng từ 7,5%/năm lên 7,8%/năm. Mức LS huy động kỳ hạn 18 tháng ở mức 8,2%/năm tại NH này cũng được ghi nhận là mức cao nhất thị trường hiện nay.

Trước đó, hàng loạt NH khác cũng tăng LS như VPBank, Eximbank, Nam Á, Hàng Hải... Cụ thể, VPBank tăng 0,2%/năm với LS kỳ hạn từ 1-3 tháng, kỳ hạn 12 tháng tăng 0,1%/năm, lên 6,7%/năm. Còn Eximbank tăng LS kỳ hạn từ 1-12 tháng, với mức tăng 0,1-0,2%/năm.

Có nhiều nguyên nhân khiến LS nhích lên trong thời gian gần đây. Theo giám đốc khối khách hàng cá nhân một NH lớn tại TP.HCM, việc NH Nhà nước đang hút tiền về thông qua việc phát hành tín phiếu với khối lượng khá lớn khiến nguồn tiền trên thị trường trở nên khan hơn.

Thêm vào đó bắt đầu vào cao điểm mùa làm ăn cuối năm, NH phải tăng LS để thu hút vốn nhằm đáp ứng nhu cầu vay của doanh nghiệp (DN).

Chưa kể theo quy định mới của NH Nhà nước, từ năm 2017 các NH thương mại phải giảm tỉ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn từ 60% xuống còn 50%. Trong khi thời gian qua nhiều NH đã sử dụng quá nhiều vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, buộc phải tăng LS huy động để kéo giảm tỉ lệ sử dụng vốn ngắn hạn.

Theo các NH, khi nhu cầu vốn tăng lên những tháng cuối năm, LS cho vay khó có thể giữ nguyên mà sẽ có xu hướng tăng chứ khó có khả năng giảm.

Doanh nghiệp lo ngay ngáy

Vừa trả xong khoản vay 640 triệu đồng cho NH sau thời gian vay 3 tháng, ông M.L., tổng giám đốc Công ty CP may MH (TP.HCM), cho biết ngoài LS, công ty còn phải trả thêm một số phí, phụ phí khác nên cộng lại cũng khá cao so với mặt bằng chung.

“Ngay sau khi có được nguồn trả nợ vay, tôi trả ngay vì nghe đâu sắp tới LS có thể tăng nữa”, ông M.L. tặc lưỡi nói.

Cũng vừa trả xong khoản vay dưới 500 triệu đồng với LS 8%/năm sau khi hoàn tất đơn hàng, ông Đặng Quốc Hùng, giám đốc Công ty TNHH Kim Bôi, lo lắng cho rằng cuối năm sẽ có nhiều đơn hàng, không vay thì không đủ nguồn tiền để xoay vòng được, nhưng nếu LS tăng các DN nhỏ sẽ gặp khó.

“LS cho vay ở mức 7-8% DN mới mạnh dạn vay, chứ nếu cao hơn, chưa kể có thể bị điều chỉnh tăng giữa chừng, ngặt nghèo lắm mới nghĩ đến chuyện vay bởi lợi nhuận không đủ để trả lãi vay”, ông Hùng cho biết.

Ông Phạm Ngọc Hưng, phó chủ tịch Hiệp hội DN TP.HCM, cho biết nhiều DN hội viên cũng bày tỏ lo ngại khả năng NH sẽ tăng LS trong thời gian tới. Theo ông Hưng, với việc NH liên tục tăng LS huy động như thời gian qua, LS cho vay cũng khó lòng giữ mức hiện nay.

“Chúng tôi vẫn thường nghe các DN nhỏ và vừa nói rằng họ rất khó tiếp cận được vốn vay NH, dù đã có nhiều giải pháp, quyết sách được đưa ra. Nhưng với những DN nào vay được, LS trở thành gánh nặng của họ”, ông Hưng nhấn mạnh.

Cũng theo ông Hưng, với các khoản vay trung và dài hạn, rất nhiều DN than phiền các NH đưa ra nhiều mức LS khác nhau cho từng hạn mức vay, chẳng hạn có NH đưa ra gói vay có điều kiện từ năm thứ hai trở đi, DN phải trả lãi vay theo mức LS huy động 12 tháng (ở thời điểm hiện tại) cộng thêm 3%, tính ra DN chịu thiệt thòi rất nhiều nếu muốn đầu tư dài hạn.

Cho vay tăng nhanh hơn huy động vốn

Theo số liệu của NH Nhà nước chi nhánh TP.HCM, dư nợ vay trung dài hạn vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng dư nợ trên địa bàn với hơn 57%, dư nợ ngắn hạn chỉ chiếm 43%. Trong khi đó, huy động vốn từ đầu năm đến nay tăng chậm hơn cho vay.

Cụ thể, tính đến cuối tháng 8-2016, huy động vốn chỉ tăng 7,71% so với cuối năm 2015 trong khi tín dụng tăng 11,24%, mức tăng cao nhất trong vòng ba năm gần đây.

Theo Trần Vũ Nghi - Ánh Hồng

Tuổi trẻ

Đọc tiếp »

Đã đến lúc hạ lãi suất!

Tiền đang dư thừa, các ngân hàng thương mại muốn giải quyết tình trạng thừa thanh khoản thì phải hạ lãi suất để kích cầu tiêu thụ.

Ngân hàng thừa tiền

Vừa qua, thông tin Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) có lượng tiền mặt gần 8.200 tỷ đồng gửi ngân hàng với kỳ hạn không quá 3 tháng, hưởng lãi suất 5,5 -6,2% một năm trong bối cảnh công ty này đầu tư ngoài ngành không hiệu quả nói riêng và tình hình tăng trưởng huy động vốn toàn hệ thống những tháng đầu năm mạnh mẽ nói chung đã chứng tỏ một điều rằng trong bối cảnh khó khăn như hiện nay, hầu như người dân và ngay cả doanh nghiệp có lượng tiền lớn đều đem vào gửi ngân hàng.

Lãi suất liên ngân hàng liên tục phá đáy lịch sử, chứng tỏ thanh khoản hệ thống ngân hàng vẫn đang ở trạng thái khá dồi dào. Ở một diễn biến khác, lãi suất của kênh tín phiếu kỳ hạn 14 ngày được phát hành trong tuần qua cũng đã ở mức rất thấp, 0,5%/năm, gần bằng lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm, điều này cho thấy nhu cầu huy động vốn của các ngân hàng thương mại qua kênh tín phiếu đang ở mức thấp.

Các dấu hiệu trên đều cho thấy thanh khoản hệ thống ngân hàng đang ở trạng thái dư thừa, với nguyên nhân chủ yếu là do NHNN bơm một lượng tiền lớn qua nghiệp vụ mua ngoại tệ từ đầu năm đến nay.

Trong khi đó, tính đến cuối tuần qua, khối lượng huy động TPCP đã đạt 98,96% so với kế hoạch đề ra. Như vậy là áp lực phát hành TPCP không còn lớn, cho thấy khả năng nguồn vốn dư thừa nằm ở các ngân hàng thương mại bị hút về qua kênh này là không cao.

Theo nghiên cứu của CTCK Bảo Việt (BVSC), nếu không có biến động lớn, thanh khoản hệ thống ngân hàng nhiều khả năng vẫn sẽ được duy trì ở trạng thái dồi dào từ nay đến hết năm. Đây là một yếu tố tích cực, hỗ trợ giảm lãi suất huy động, từ đó giúp các ngân hàng có điều kiện tiết giảm lãi suất cho vay cho doanh nghiệp.

Các chuyên gia từ Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia nhận định thanh khoản trên thị trường 1 tiếp tục ổn định, lãi suất huy động và cho vay ở mức thấp. Việc phấn đấu giảm lãi suất cho vay những tháng cuối năm có các yếu tố thuận lợi do thanh khoản liên ngân hàng dồi dào; tỷ lệ tín dụng/huy động là 84,6%, giảm so với mức 85,7% cuối năm 2015; áp lực tăng lãi suất do yếu tố tỷ giá được giảm thiểu do thị trường ngoại hối ổn định, lãi suất TPCP tiếp tục giảm ở các kỳ hạn, cùng với việc TPCP đã đạt hơn 89% kế hoạch năm sẽ giảm áp lực lên lãi suất ngân hàng.

Bao giờ lãi suất sẽ giảm thêm?

Công bố thông tin về tình hình hoạt động tháng 8/2016, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết lãi suất cho vay phổ biến 6%-9%/năm đối với kỳ hạn ngắn và 9%-11%/năm đối với trung và dài hạn. Như vậy, so với nhiều tháng trước, lãi suất cho vay vẫn ổn định.

Trước câu hỏi từ nay đến cuối năm, lãi suất có thể giảm hơn được không, bà Nguyễn Thị Hồng, Phó Thống đốc NHNN cho biết, cơ quan điều hành sẽ cố gắng phấn đấu để giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ các doanh nghiệp.

Bà Hồng cho biết ngay từ đầu năm, nhiều chuyên gia kinh tế cũng như NHNN dự báo lạm phát sẽ tăng trở lại thì việc ổn định mặt bằng lãi suất là nhiệm vụ hết sức khó khăn và thách thức.

Vào thời điểm đầu năm, một số ngân hàng điều chỉnh tăng lãi suất huy động. Với diễn biến này, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, phấn đấu giảm lãi suất cho vay.

Nhìn chung có thời điểm lãi suất tăng, giảm và theo số liệu tổng hợp của NHNN, mặt bằng lãi suất về cơ bản là vẫn ổn định.

NHNN tổ chức các giải pháp đầu tiên ổn định mặt bằng lãi suất huy động, để đặt được mục tiêu này, với vai trò điều tiết, NHNN đưa tiền/hút tiền đảm bảo thanh khoản dư thừa ở mức hợp lý. Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất ở mức phù hợp nhằm ngăn chặn các ngân hàng sẽ không quay ra huy động thị trường 1 để đẩy lãi suất tăng lên.

“Từ nay đến cuối năm, NHNN sẽ sử dụng các công cụ cố gắng ổn định lãi suất thị trường. Thống đốc NHNN cũng đã ban hành các chỉ thị các TCTD tiết giảm các chi phí hoạt động, cân đối nguồn vốn từ đó phấn đấu giảm lãi suất cho vay. Và thực tế, đã có ngân hàng giảm lãi suất cho vay”, Phó thống đốc NHNN khẳng định.

Trong khi đó, tính đến ngày 23/8/2016, tín dụng nền kinh tế tăng 9,09% so với cuối năm 2015 nhưng thực tế ngân hàng vẫn dư tiền mà khách vẫn chạy vòng quanh không tiếp cận được vốn vay.

Lãnh đạo một ngân hàng thương mại cổ phần phía Nam chia sẻ với chúng tôi, tìm kiếm khách hàng tốt để cho vay trong thời buổi cạnh tranh này rất khó khăn, đỏ mắt tìm khách hàng để đẩy nguồn tiền ra sản xuất. Nhóm khách hàng có sức khỏe tài chính ổn định, uy tín thì nhân viên các ngân hàng phải cạnh tranh, chăm sóc khách hàng với lãi suất ưu đãi. Còn nhóm khách hàng kinh doanh không mấy khả quan, không có tài sản thế chấp thì hầu hết các ngân hàng e ngại, sợ rủi ro, nợ xấu.

Còn theo một chuyên gia trong ngành dự báo, những tháng còn lại của năm 2016, người đi vay lớn nhất sắp ngừng vay (Kho bạc Nhà nước không bán trái phiếu); Nhu cầu tiêu dùng (nhu cầu hàng hóa bán lẻ) sụt giảm; Cầu tín dụng vẫn thấp dù so với mọi năm đây là thời điểm gia tăng sản xuất để phục vụ các dịp lễ tết sắp đến ...), các ngân hàng thương mại muốn giải quyết tình trạng dư thừa thanh khoản thì phải hạ lãi suất để kích cầu tiêu thụ.

Kim Tiền

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

NHNN chấp thuận nguyên tắc Vinaconex Viettel sáp nhập vào ngân hàng SHB

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa chính thức chấp thuận về nguyên tắc sáp nhập Công ty tài chính cổ phần Vinaconex Viettel (VVF) vào Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB). Vốn điều lệ của SHB sẽ tăng lên thành hơn 10.485 tỉ đồng sau khi thực hiện sáp nhập.

NHNN vừa có công văn chấp thuận về nguyên tắc VVF sáp nhập vào ngân hàng TMCP Sài Gòn (SHB) theo đề án đã được Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) của SHB và VVF thông qua, và thành lập công ty con là công ty tài chính tín dụng tiêu dùng.

SHB và VVF có trách nhiệm hoàn tất hồ sơ theo quy định về việc tổ chức lại tổ chức tín dụng và văn bản khác có liên quan, trình Thống đốc NHNN xem xét chấp thuận việc sáp nhập VVF và SHB.

Đối với việc thành lập công ty con là công ty tài chính tín dụng tiêu dùng của SHB, NHNN chấp thuận về nguyên tắc việc thành lập công ty này. Đồng thời NHNN chỉ đạo SHB và ban trù bị phải thành lập Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Hà Nội, có trách nhiệm thực hiện thủ tục tiếp theo đề nghị NHNN chấp thuận thành lập công ty tài chính hoạt động trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng theo đúng quy định.

Được biết, Công ty tài chính cổ phần Vinaconex Viettel (VFF) có vốn điều lệ 1.000 tỉ đồng, còn ngân hàng SHB có vốn điều lệ hơn 9.485 tỉ đồng.

Như vậy, sau khi tiến hành sáp nhập, vốn điều lệ của SHB sẽ tăng lên 10.485 tỉ đồng.

Mai Ngọc

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Hoãn phiên tòa xử 'sếp' ngân hàng gây thiệt hại hơn 600 tỷ đồng

Do luật sư vắng mặt, đại diện VKS và bị cáo Phạm Văn Cử đề nghị HĐXX cho hoãn phiên tòa và được chấp thuận.

Sáng nay (14/9), TAND cấp cao tại TP.HCM đã mở phiên tòa phúc thẩm vụ án "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", "Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng" xảy ra tại Ngân hàng Agribank chi nhánh 7 (Agribank CN7 – quận 7, TP.HCM). Đây là vụ việc đã gây thiệt hại hơn 600 tỉ đồng cho Nhà nước.

Trước đó, tại phiên sơ thẩm vào ngày 21/12/2015, TAND TP.HCM tuyên phạt Phạm Văn Cử (54 tuổi, ngụ quận 7, nguyên Giám đốc Agribank CN7 20 năm tù; Kiều Đình Thọ (35 tuổi, ngụ quận 1, TP.HCM, nguyên Trưởng phòng kế hoạch kinh doanh) 16 năm tù; Đỗ Thị Thu Hà (41 tuổi, ngụ quận 7, TP.HCM, nguyên Phó trưởng phòng kế hoạch kinh doanh) 9 năm tù cùng về tội "Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng".

Bị cáo Phạm Trịnh Thắng (44 tuổi, ngụ quận 7, Chủ tịch hội đồng thành viên Cty TNHH thương mại Mai Khôi) bị tuyên án chung thân; Dương Thị Kim Luyến (vợ Thắng, 43 tuổi, ngụ Q.7, nguyên Giám đốc Cty Mai Khôi) 20 năm tù. Bốn bị cáo còn lại tham gia với vai trò giúp sức nhận mức án từ 7 năm - 12 năm tù vì tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

Theo bản án sơ thẩm, từ năm 2009 – 2011, ông Phạm Văn Cử chỉ đạo cấp dưới tiếp nhận hồ sơ, ký hợp đồng tín dụng vay vốn với Cty Mai Khôi khi hồ sơ chưa đảm bảo đúng quy định; thẩm định không đúng thực tế tình hình hoạt động kinh doanh, năng lực tài chính; nhận tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất không đúng quy định…

Cty Mai Khôi sử dụng vốn vay từ Agribank CN7 sai mục đích, gây nợ xấu cho Agribank CN 7 với số tiền gốc và lãi hơn 600 tỷ đồng.

Sau bản án sơ thẩm, tất cả các bị cáo đều kháng cáo.

Tại phiên tòa sáng nay, một luật sư của bị cáo Pham Văn Cử vắng mặt. Bị cáo và đại diện VKS để nghị HĐXX cho hoãn phiên tòa.

Sau khi hội ý, HĐXX đã quyết định hoãn phiên tòa với lý do bị cáo Cử là đầu vụ, có kháng cáo kêu oan nếu thiếu vắng luật sư là thiệt thòi quyền lợi cho bị cáo.

Theo Tân Châu

Tiền phong

Đọc tiếp »

TS. Nguyễn Đức Kiên: “Chưa đến lúc Nhà nước can thiệp vào thị trường nợ xấu”

Mới đây, nổi lên những tranh cãi trái chiều về việc có nên dùng Ngân sách để xử lý nợ xấu hay không? Trả lời về vấn đề này, TS. Nguyễn Đức Kiên – Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nhận định: “Chưa đến lúc Nhà nước can thiệp vào thị trường nợ xấu".

Nợ xấu vẫn đang là vấn đề nhức nhối của ngành ngân hàng hiện nay. Nó là nguyên nhân chính cản trở lãi suất tín dụng giảm, giảm phần lớn lợi nhuận của ngân hàng. Đó là lý do tại sao, nhiều phương án được đưa ra nhằm giải quyết “cục máu đông” này của nền kinh tế.

Phương án dùng thêm ngân sách để xử lý nợ xấu được cho như một hình thức để Nhà nước can thiệp vào thị trường nợ xấu. Nó là phương án khả thi nhất hiện nay giúp các ngân hàng xử lý số “tài sản độc hại” khiến cơ thể sinh bệnh.

Tuy nhiên, nếu nhìn một cách khách quan thì nợ xấu phát sinh từ ngân hàng, mà nguyên nhân chính là do tăng trưởng tín dụng quá đà, năng lực thẩm định vốn kém. Vậy tại sao lại dùng ngân sách, tiền của dân để xử lý nợ xấu?

Trả lời câu hỏi về vấn đề sử dụng ngân sách để xử lý nợ xấu ngân hàng, TS. Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho biết: Xử lý nợ xấu là cả một quá trình, đòi hỏi nền kinh tế phải có sự tổn thất nhất định. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng trước khi Nhà nước bỏ vốn thì thị trường cần tự điều chỉnh.

"Khi thị trường không tự điều chỉnh được mới cần nhà nước can thiệp. Còn hiện nay, thị trường còn chưa điều chỉnh, thì tại sao bảo Nhà nước can thiệp? Chưa đến lúc Nhà nước can thiệp vào thị trường nợ xấu", ông Kiên nhận định.

Theo ông Kiên, thị trường điều chỉnh là phải cho phá sản những doanh nghiệp yếu kém, làm ăn không hiệu quả. Ngân hàng cho vay vào lĩnh vực rủi ro, sai phạm thì ngân hàng phải chịu và doanh nghiệp rủi ro thì phải chịu. Lúc đó, ngân hàng phải siết nợ doanh nghiệp. Sau khi siết nợ xong, ngân hàng cân đối trên bảng thu chi mà còn thiếu bao nhiêu thì hình thành nợ xấu, phải trích lập dự phòng.

Trong trường hợp này, nếu các ngân hàng không trích lập dự phòng thì sẽ không tăng được mức tín dụng để huy động. Lúc đó ngân hàng buộc phải giảm lợi nhuận, tài sản để xử lý nợ xấu. Các cổ đông phải chấp nhận lợi nhuận về bằng 0, thậm chí có 2 – 3 năm phải âm lợi nhuận, giảm tài sản. Đó là việc của các ngân hàng.

Ông Kiên phân tích: Khi đó, thị trường có thiếu thì Nhà nước sẽ thông qua 4 ngân hàng nhà nước để bơm tiền ra nhằm cân đối lại nhu cầu tín dụng của thị trường. Đó mới là lúc, Nhà nước can thiệp vào thị trường. Và nếu ngay cả 4 NHTM nhà nước không làm được thì Nhà nước sẽ thông qua VAMC để xử lý nợ xấu.

“Trong lúc đó, chúng ta phải đảm bảo NHTM nhà nước cũng là một doanh nghiệp kinh doanh, nguyên tắc của nó là không được mất vốn, phải có lợi khi tham gia thị trường đấy, nó phải đạt được lợi nhuận ít nhất là bằng với lợi nhuận kinh doanh bình thường thì cổ đông nước ngoài mới mua cổ phần ngân hàng. Và khi họ mua cổ phần rồi thì họ phải quyết dịnh chứ sao nhà nước lại phải quyết định”, ông Kiên khẳng định.

Đặt vấn đề “phá sản ngân hàng” khi ngân hàng không còn đủ năng lực, âm vốn, ông Kiên cho biết: “Chúng ta không để ngân hàng phá sản nên mới mua lại với giá 0 đồng. Như ngân hàng xây dựng là vốn đang âm 9.000 tỷ đồng và Nhà nước mua bằng 0 có nghĩa là Nhà nước phải bỏ thêm tiền để cho nó cân bằng”.

Cùng với đó Nhà nước cũng hỗ trợ bằng thủ tục, bằng ban hành các quy định đặc biệt. Ví như: Ngân hàng Xây dựng khi đã âm vốn thì không được vay trên thị trường 2. Nhưng trường hợp nhà nước là chủ sở hữu thì Nhà nước quy định ngân hàng này vẫn được tham gia vào thị trường 2 mua bán bình thường trong giới hạn quy định để đảm bảo tính thanh khoản của ngân hàng. Để dòng tiền của người gửi tiền phát hành tín dụng khi được tạo ra không tạo sự bất ổn của thị trường tiền tệ.

Ông Kiên cho biết: Hiện nợ xấu chúng ta đang để cho các ngân hàng tự xử lý và tự đề ra phương án xử lý. Chính phủ chỉ đảm bảo thị trường tài chính không bị vỡ, giữ ổn định để ngân hàng hoạt động. Trong thời hạn 5 năm nếu ngân hàng bán nợ xấu cho VAMC thì phải trích lập dự phòng rủi ro, để sau 5 năm xoá được cái nợ đấy. Đấy là sự hỗ trợ rất lớn của Nhà nước cho các ngân hàng thương mại.

Sau 5 năm, nếu ngân hàng không khắc phục được thì buộc Nhà nước phải vào cuộc. Và việc đầu tiên là mua nợ xấu theo giá thị trường, qua định giá của kiểm toán quốc tế. Họ định giá là bao nhiêu nếu định giá âm thì ngân hàng sau 5 năm phải bù vào chỗ tiền âm kia.

Sau 3 lần đại hội đồng cổ đông mà ngân hàng không bù được chỗ lỗ kia thì lúc ấy ngân hàng buộc phải tuyên bố phá sản, hoặc là để bị mua lại với giá 0 đồng.

Phân tích thêm, ông Kiên cho biết: “Lợi nhuận cùng với rủi ro của ngân hàng phải nhà đầu tư nước ngoài mới định giá được. Ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh đặc biệt, không phải cứ bán xong, trao tay là xong. Nó như bán cây cảnh, bán xong đang ở chậu này tươi tốt nhưng chuyển sang chậu khác chắc gì đã tốt, đã sống. Cho nên bao giờ cũng có rủi ro, ràng buộc”.

Theo Nguyễn Thoan

Bizlive

Đọc tiếp »

Chủ tịch Quốc hội: “Nợ xấu dưới 3% là chưa chính xác”

Báo cáo nợ xấu của các tổ chức dưới 3% là chưa chính xác, vì nó vẫn treo ở VAMC, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân khẳng định.

Chiều 14/9 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến một số vấn đề lớn về dự án Luật Đấu giá tài sản.

Đây là dự án luật đã được Quốc hội khoá 13 thảo luận. Tại các phiên thảo luận về dự án luật này, một số ý kiến đề nghị quy định một chương về đấu giá nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, trong đó quy định đầy đủ nguyên tắc, trình tự, thủ tục xử lý nợ xấu nhằm bảo đảm tính minh bạch.

Cũng có ý kiến đề nghị giao Chính phủ quy định về đấu giá nợ xấu vì cho rằng việc quy định cụ thể ngay trong luật là không phù hợp, không đảm bảo sự linh hoạt.

Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, tiếp thu ý kiến đại biểu, nội dung về đấu giá nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được quy định mang tính nguyên tắc tại một số điều, khoản trong luật và giao Chính phủ hướng dẫn về trình tự, thủ tục đấu giá đối với loại tài sản này.

Quy định như vậy nhằm tạo điều kiện cho việc đấu giá nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu mà Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) sử dụng nguồn tiền có nguồn gốc ngân sách để mua được thực hiện theo trình tự, thủ tục thuận lợi, phù hợp với tình hình thực tiễn xử lý nợ xấu nhưng vẫn phải tuân thủ các nguyên tắc, quy định của Luật Đấu giá tài sản.

Theo đó, dự thảo luật đã bổ sung quy định tài sản đấu giá là khoản nợ xấu, và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu mà VAMC đã mua là thuộc tài sản đấu giá, khi VAMC lựa chọn bán thông qua đấu giá.

Dự thảo luật cũng đã quy việc xác định giá khởi điểm của tài sản là khoản nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu mà VAMC đã mua phải được xác định theo quy định của pháp luật áp dụng đối với loại tài sản đó.

Điều 54 của dự thảo luật quy định VAMC được tự đấu giá hoặc ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản với tổ chức đấu giá tài sản, trong trường hợp VAMC tự đấu giá thì vẫn phải bảo đảm các nguyên tắc được nêu tại luật này. Trong đó có nguyên tắc cuộc đấu giá phải do đấu giá viên điều hành.

Các quy định liên quan đến đấu giá viên hành nghề tại VAMC các hành vi nghiêm cấm và xử lý vi phạm đối với VAMC cũng đã được bổ sung.

Dự thảo luật quy định giao Chính phủ hướng dẫn về trình tự, thủ tục đấu giá nợ xấu và tải sản bảo đảm của khoản nợ xấu mà VAMC đã mua, Chủ nhiệm Thanh cho biết.

Băn khoăn về tính minh bạch của quy định tại phần này, Chủ tịch Quốc hội nói, nợ xấu của các tổ chức tín dụng mà VAMC mua thực ra là hạch toán hết chứ không có tiền mà mua.

"Báo cáo nợ xấu dưới 3% là chưa chính xác, vì nó treo ở đây, chưa bán được, trong khi đó dự thảo luật lại giao cho VAMC tự đấu giá thì không đảm bảo minh bạch, không rõ ràng", Chủ tịch nhấn mạnh.

Theo Chủ tịch Quốc hội, cần nghiên cứu thêm, chứ không nên trao cho VAMC - một cơ quan mới thành lập - một đặc ân được luật hoá như vậy.

Phân tích của Chủ tịch được một số vị khác đồng tình.

Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Hà Ngọc Chiến lập luận, VAMC là mô hình mới, tính hiệu quả còn nhiều ý kiến khác nhau nên cần cân nhắc khi quy định cơ quan này có quyền lựa chọn được tự đấu giá hoặc ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản với tổ chức đấu giá tài sản.

Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính - Ngân sách Nguyễn Đức Hải cũng đề nghị không nên quy định về quyền đấu giá của VAMC.

VAMC được ra đời bởi một nghị định, nếu quy định như dự thảo luật thì vô hình chung đã luật hoá mô hình này, trong khi chưa có tổng kết, đánh giá tác động, Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp Lê Thị Nga góp ý.

Theo Nguyễn Lê

VnEconomy

Đọc tiếp »

Lãi suất cho vay khó giảm như kỳ vọng của các doanh nghiệp

Trong mấy ngày gần đây, một số ngân hàng thương mại cổ phần đã tăng lãi suất huy động kỳ hạn dài, điều này dấy lên lo ngại lãi suất cho vay khó có thể giảm được theo lời kêu gọi của Chính phủ và của Ngân hàng Nhà nước.

Để tìm hiểu nguyên nhân của câu chuyện này, phóng viên đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng.

- Ông lý giải nguyên nhân vì sao thời điểm này thanh khoản của các ngân hàng tốt nhưng gần đây một số ngân hàng lại tăng lãi suất các kỳ hạn dài?

Ông Nguyễn Trí Hiếu: Hiện đang có hai thị trường, thị trường 1 là thị trường ngân hàng hấp thụ vốn từ dân cư vào các tổ chức kinh tế, cho vay tiêu dùng. Thị trường 2 là thị trường của các ngân hàng làm việc với nhau gọi là thị trường liên ngân hàng chủ yếu cho vay từ qua đêm đến ba tháng.

Hiện tại thanh khoản của thị trường 2 đang rất tốt, lãi suất rất thấp, thế nhưng vốn ở thị trường này chỉ sử dụng cho hệ thống liên ngân hàng. Trước đây các ngân hàng có thể dùng vốn này để cho vay trên thị trường 1 nhưng giờ các ngân hàng không còn làm được việc đó, thứ nhất là họ không được phép làm, thứ hai là rất rủi ro vì thị trường liên ngân hàng vốn rất ngắn, trong khi thị trường 1 là thị trường cho vay có thể từ ngắn đến trung và dài hạn.

Theo tôi, trên thị trường 1 dòng vốn không được lưu chuyển, không có tính thanh khoản như thị trường 2. Tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng đến thời điểm này đã đạt gần 10%, từ nay đến cuối năm mục tiêu tăng trưởng của Ngân hàng Nhà nước là từ 18-20%, nên nhu cầu vốn rất cao. Chính vì thế các ngân hàng tăng lãi suất lên để thu hút vốn huy động, để có thể tài trợ cho hoạt động tín dụng của nền kinh tế.

Như tôi đã nói không thể lấy dòng vốn từ thị trường 2 để cung cấp cho thị trường 1 vì hai thị trường này cần phải có sự tách biệt với nhau. Chính vì thế ở trên thị trường 1 các ngân hàng nếu thiếu vốn thì chỉ còn cách là tăng lãi suất để huy động vốn trong dân cư.

Bên cạnh đó, bắt đầu từ đầu năm 2017, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn sẽ được kéo xuống từ 60% như hiện nay xuống 50% và đến đầu năm 2018 tỷ lệ đó xuống còn 40%. Có nghĩa là dòng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn càng ngày càng bị thu hẹp. Chính vì thế nhiều ngân hàng không những tăng lãi suất huy động ngắn hạn mà còn tăng ở những kỳ hạn dài chủ yếu từ kỳ hạn 13 tháng trở lên để đáp ứng được tỷ lệ 50%-40% như Ngân hàng Nhà nước đã quy định.

Thêm một lý do nữa, nợ xấu cũng là vấn đề cản trở trong kinh doanh của ngân hàng. Nếu một phần vốn cho vay ra mà không quay trở lại nữa thì ngân hàng phải huy động một nguồn vốn lớn để trả cho khách hàng những món nợ cũ. Chính vì vậy, cách nhanh nhất là phải tăng lãi suất huy động lên làm cho hấp dẫn đồng tiền mới để trả cho dòng tiền cũ mà nó không quay trở lại với ngân hàng.

Tất cả những yếu tố này tạo ra áp lực lên các ngân hàng cần phải tăng vốn, tăng lãi suất để huy động vốn để mà tài trợ cho những tín dụng sắp tới.

- Như vậy, điều này sẽ tác động thế nào đến các doanh nghiệp hiện nay?

Ông Nguyễn Trí Hiếu: Tác động rất lớn đến các doanh nghiệp vì lãi suất huy động có xu hướng tăng như thế, mặc dù các ngân hàng rất muốn thực hiện chủ trương của Chính phủ là giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ các doanh nghiệp. Thế nhưng trong tình trạng chi phí vốn tăng lên, nếu họ không tăng lãi suất cho vay lên thì có nghĩa là biên độ lợi nhuận (NIM) của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng. Vì hiện tại NIM của các ngân hàng đã rất thấp chỉ khoảng 2%, nếu giờ mà còn thấp hơn nữa thì tôi nghĩ các ngân hàng sẽ bị lỗ.

Chính vì vậy việc giảm lãi suất cho vay rất khó, việc này đang tác động rất nhiều đến các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp lớn chứ không chỉ doanh nghiệp vừa và nhỏ.

- Như vậy xu hướng giảm lãi suất cho vay theo lời kêu gọi của Chính phủ sẽ khó thực hiện?

Ông Nguyễn Trí Hiếu: Tôi nghĩ rằng khó thực hiện, mặc dù Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng cũng đang có những biện pháp cần thiết để có thể giảm chi phí vốn xuống cho các ngân hàng. Thực tế, các ngân hàng vẫn phải tăng lãi suất đầu vào thì lãi suất đầu ra khó có thể xuống được. Tất cả đều mong muốn thực hiện chủ trương của Chính phủ nhưng thực sự là rất khó khăn.

- Nhận định của ông về xu hướng lãi suất thị trường từ nay đến cuối năm?

Ông Nguyễn Trí Hiếu: Lãi suất huy động có lẽ khó có thể giảm, từ nay đến cuối năm càng ngày các ngân hàng càng cần vốn huy động hơn. Tuy nhiên lãi suất huy động tăng bao nhiêu thì rất khó có thể dự đoán được tại thời điểm này. Nhưng tôi nghĩ có khả năng tăng từ 0,5% trở lên.

Nếu lãi suất huy động tăng lên như thế thì tôi nghĩ lãi suất cho vay khó có thể duy trì được ở mức hiện tại chưa nói là có thể giảm. Tôi nghĩ rằng lãi suất cho vay có khả năng sẽ tăng nhưng mức tăng thấp hơn mức tăng của lãi suất huy động và có thể sẽ tăng bình quân khoảng 0,25%./.

- Xin trân trọng cảm ơn ông!

Theo Thúy Hà

Vietnam+

Đọc tiếp »

Vietcombank từ chối mở thẻ ATM cho người câm điếc bẩm sinh?

Vietcombank từ chối mở thẻ ATM cho 4 trường hợp câm điếc bẩm sinh tại Hà Nội vì cho rằng họ không đủ năng lực hành vi dân sự và theo quy định của Ngân hàng Nhà nước thì không được phép.

Sáng 14/9, anh Phạm Việt Hoài - Chủ tịch HĐQT Công ty CP Kym Việt (đơn vị hoạt động theo mô hình doanh nghiệp xã hội nơi có nhiều người khuyết tật sản xuất thú nhồi bông) đến chi nhánh Vietcombank Thành Công (Hà Nội) đăng ký làm thẻ ATM cho 4 nhân viên của công ty. Anh Hoài mang đủ hồ sơ và có trình bày về tình trạng của 4 nhân viên đó là bị câm điếc bẩm sinh.

Sau khi trao đổi, phía Vietcombank từ chối việc mở thẻ ATM vì cho rằng 4 người đăng ký không đủ năng lực hành vi dân sự nên từ chối cấp thẻ. Đại diện Vietcombank cho biết đó là quy định của Ngân hàng Nhà nước. Sau đó, anh Hoài đành ra về.

Trao đổi với chúng tôi tối 14/9, anh Phạm Việt Hoài cho biết, việc quyết định như vậy là không công bằng và cản trở quyền tiếp cận dịch vụ ngân hàng thông thường của những người vốn đã thiệt thòi (anh Hoài cũng là một người khuyết tật). 4 nhân viên bị câm điếc bẩm sinh mà anh Hoài mang hồ sơ hộ đến Vietcombank là người tỉnh xa và các nhân viên này cũng là người điền thông tin vào bản khai. "Việc có thẻ ATM sẽ giúp các bạn đỡ phải giữ tiền mặt, tránh các sự cố đáng tiếc, và có thêm chút lãi" - anh Hoài cho biết.

Chúng tôi đã liên hệ với Vietcombank về vụ việc này nhưng một đại diện ngân hàng cho biết cần xác minh lại mới có câu trả lời.

Thế nào là người có “năng lực hành vi dân sự đầy đủ”?

Người "có năng lực hành vi dân sự đầy đủ" là người có khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.

Tất cả mọi người “thành niên” (tức người từ đủ 18 tuổi trở lên) đều có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ những “thành niên” sau đây không được coi là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ:

- Người bị tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình và được tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.

- Người nghiện ma tuý hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình và toà án ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

(Theo công ty Tư vấn Luật Doanh nghiệp Việt Nam)

Tùng Lâm

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

USD bất ngờ tăng sau thời gian dài yên ắng

Sau nhiều tuần “ngủ yên”, giá USD tại các ngân hàng thương mại trong phiên giao dịch ngày hôm qua (14-9) đã bất ngờ tăng trở lại.

Tại Vietcombank, giá USD tăng 10 đồng so với trước đó, mua vào - bán ra ở mức 22.270-22.340 đồng/USD. Tương tự, tại BIDV giá USD tăng 15 đồng ở chiều mua vào và 5 đồng ở chiều bán ra.

Trong khi đó, tỉ giá trung tâm do Ngân hàng Nhà nước công bố ở mức 21.965 VND/USD, tăng tiếp 9 đồng so với phiên liền trước. Thời gian vừa qua do thị trường ngoại hối, tỉ giá thuận lợi nên cơ quan này đã mua được hơn 10 tỉ USD để tăng dự trữ ngoại hối cho Nhà nước.

Một số chuyên gia kinh tế dự báo Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ chưa tăng lãi suất trong năm nay do cuộc bầu cử tổng thống sẽ diễn ra vào tháng 11 tới đây. Hơn nữa, Fed cũng muốn tiếp tục duy trì lãi suất thấp nhằm củng cố đà phục hồi kinh tế trong bối cảnh các nước đua nhau nới lỏng tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng miếng SJC rơi về sát mốc 36 triệu đồng/lượng. Đến 15 giờ chiều qua, vàng miếng SJC tại TP.HCM mua vào - bán ra ở ngưỡng 36,01-36,25 triệu đồng/lượng.

Theo T.Linh

Pháp luật Tp. Hồ Chí Minh

Đọc tiếp »

Tranh cãi "nảy lửa" về nợ xấu: Bán nợ cho VAMC chẳng báu bở gì!?

“VAMC thực chất chỉ là một dạng "thủ thuật kế toán" để đưa nợ xấu ra khỏi bảng cân đối kế toán của các ngân hàng. Tuy nhiên giải pháp này chẳng "béo bở" gì cho các ngân hàng khi bán nợ xấu cho VAMC...

Bộ Kế hoạch và Đầu tư mới đây đã đưa ra phương án dùng tiền ngân sách để xử lý một phần nợ xấu. Đề xuất này nằm trong dự thảo Đề án tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.

Các nước đều làm thế?

Theo số liệu từ Kiểm toán Nhà nước, nợ xấu của các tổ chức tín dụng đã bán cho VAMC hơn 79.600 tỷ đồng trong tổng số 143.500 tỷ đồng xử lý nợ xấu năm 2014. Tuy nhiên, việc xử lý nợ xấu của VAMC chưa hiệu quả. Năm 2014, VAMC chỉ xử lý được 28 khoản nợ tương ứng 627 tỷ đồng trong tổng số 96.455 tỷ đồng nợ xấu đã mua.

Theo chuyên gia kinh tế Bùi Trinh, một trong những nguyên nhân của việc mua nợ xấu của VAMC trong thời gian qua diễn ra chậm chạp, nguyên nhân do việc định giá tài sản không được minh bạch. Theo đó, tỷ lệ giữa nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu giai đoạn 2006-2011 của khối doanh nghiệp nhà nước là 3,3, của khối doanh nghiệp ngoài nhà nước là 3.

“Thông thường khi ngân hàng cho doanh nghiệp vay thì nếu doanh nghiệp có 1 đồng vốn chủ sở hữu thì chỉ vay được khoảng 0,6 – 0,7 đồng. Trường hợp có 1 đồng mà lại vay đến hơn 3 đồng thường xảy ra đối với doanh nghiệp Nhà nước hoặc do việc định giá tài sản khi cho vay. Khi tài sản thực sự không như vậy thì cái ai dám mua cái nợ xấu đã được thổi phồng qua giá trị tài sản. Như vậy tiền vay là tiền thật nhưng tài sản sổ sách lại không phải như vậy thì ai dám mua”, chuyên gia kinh tế Bùi Trinh nói.

Trong khi đó, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia tài chính ngân hàng, cho rằng cần phải giải quyết được những nút thắt như có dùng thêm ngân sách để xử lý nợ xấu hay không? Ai sẽ bù lỗ và chia lãi với VAMC khi mua nợ xấu về? Thị trường mua bán nợ thế nào? Theo ông Lực, nếu dùng ngân sách để xử lý nợ xấu thì con số có thể rơi vào khoảng 5.000 đến 10.000 tỉ đồng.

Tuy nhiên, ông Bùi Trinh lại cho rằng tiền ngân sách là tiền của dân dù là tiền thuế hay tiền đi vay, không thể bắt người dân trả nợ cho cái mà họ không nợ. Như vậy là lấy tiền của người nghèo chia cho người giàu.

Chuyên gia "phản pháo"... chuyên gia

Phản hồi lại nhận định của hai chuyên gia trên, chuyên gia tài chính – ngân hàng, TS. Lê Hồng Giang, Công ty Quản lý quỹ TGM tại Australia,cho rằng cả chuyên gia Bùi Trinh và TS. Cấn Văn Lực đều có cách hiểu sai trong vấn đề này.

TS. Lê Hồng Giang phân tích: Khi ngân hàng cho vay, họ dựa trên giá trị của tài sản thế chấp chứ không phải vốn chủ sở hữu như phân tích của chuyên gia Bùi Trinh. Chẳng hạn khi tôi đi mua nhà, ngân hàng sẵn sàng cho tôi vay 90% giá trị căn nhà, như vậy tỷ lệ cho vay trên vốn chủ sở hữu là 9 lần. Cho nên các ngân hàng Việt Nam cho doanh nghiệp vay gấp 3 lần vốn chủ sở hữu không có gì phi lý nếu tài sản thế chấp được định giá đúng. Tuy nhiên, với một đòn bẩy tài chính cao như vậy sẽ làm tăng rủi ro cho doanh nghiệp và tất nhiên rủi ro cho các chủ nợ.

Về VAMC tổ chức này hoàn toàn không chịu rủi ro thua lỗ khi bán lại các khoản nợ xấu đã mua về trước đó. Theo quy định, tất cả các khoản lời lỗ từ bán nợ xấu sẽ được chuyển hết cho ngân hàng đã bán khoản nợ xấu đó cho VAMC.

“VAMC thực chất chỉ là một dạng "thủ thuật kế toán" để đưa nợ xấu ra khỏi bảng cân đối kế toán của các ngân hàng. Tuy nhiên giải pháp này chẳng "béo bở" gì cho các ngân hàng vì họ buộc phải trích lập dự phòng cho số trái phiếu đặc biệt VAMC phát hành để đổi lấy nợ xấu. Cho nên chỉ khi nào ngân hàng mất hết hy vọng đòi được nợ (hoặc thanh lý được tài sản thế chấp nhanh và với giá hợp lý) thì họ mới bán nợ cho VAMC. Như thế họ sẽ giãn được việc ghi nhận lỗ ra vài năm (thời hạn của trái phiếu đặc biệt) thay vì phải làm ngay một lần,” TS. Lê Hồng Giang phân tích.

Về ý kiến của ông Dương Quốc Anh, Phó chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội "theo kinh nghiệm của các nước thì hầu hết là dùng ngân sách để xử lý nợ xấu", TS. Giang phân tích:

Cứ coi xử lý nợ xấu là bán nó ra khỏi bảng cân đối kế toán cũng không thể có chuyện "hầu hết [các nước] là dùng ngân sách". Đúng ra là hầu hết các nước dùng ngân sách để tái cơ cấu nợ các ngân hàng khi vốn chủ sở hữu của họ tụt xuống quá thấp, dẫn đến hệ số an toàn vốn (CAR) không đủ hoặc có nguy cơ âm vốn. Trong cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2009, vấn đề xử lý nợ xấu hầu như không ai chú ý đến, trong khi tái cấp vốn và/hoặc hỗ trợ thanh khoản là tâm điểm của nhiều nước.

“Có điều, các ngân hàng luôn có xu hướng giấu nợ xấu vì nếu công khai và trích lập dự phòng họ sẽ bị cụt vốn, dẫn đến phải tái cơ cấu vốn (recapitalize) thông qua phát hành thêm cổ phiếu hoặc không chia cổ tức. Trong trường hợp quá xấu dẫn đến nguy cơ khủng hoảng, nhà nước mới cần trợ giúp tái cơ cấu vốn bằng tiền ngân sách, nhưng phải bằng "tiền tươi, thóc thật" chứ không phải mua bán giá 0 đồng,” TS. Lê Hồng Giang phân tích.

Tất nhiên, khi tái cơ cấu vốn bằng tiền ngân sách nhà nước có rủi ro sẽ lỗ và đó đúng là thiệt hại cho tiền thuế của người dân. Đó là cái giá phải trả cho sự lơ là quản lý/giám sát của cơ quan quản lý nhà nước trước đó dẫn đến các NHTM đã cho vay quá rủi ro. Do vậy, TS. Giang cho rằng thay vì cứ chăm chăm "xử lý nợ xấu" cần phải "xử lý" những cơ quan/cá nhân không hoàn thành trách nhiệm quản lý trước đó.

Theo Ngân Giang

Infonet

Đọc tiếp »

Luật sư: Nhân viên Vietcombank từ chối người khuyết tật mở thẻ là không đúng

Theo luật sư, chỉ khi nào Tòa án tuyên bố mới kết luận ai mất năng lực hành vi dân sự, kể cả những trường hợp nghi ngờ các tổ chức cũng không được lắc đầu từ chối họ.

Mới đây, thông tin Ngân hàng TMCP Ngoại thương (Vietcombank - VCB) từ chối mở thẻ ATM cho 4 trường hợp câm điếc bẩm sinh đều trên 18 tuổi tại Hà Nội vì cho rằng họ không đủ năng lực hành vi dân sự đã khiến nhiều người băn khoăn liệu rằng người khuyết tật có được mở tài khoản ngân hàng hay không?

Trao đổi với chúng tôi, Luật sư Trương Thanh Đức, Chủ tịch HĐTV Công ty luật Basico cho biết nhân viên ngân hàng Vietcombank kết luận như vậy là không đúng.

Theo quy định của Luật dân sự 2005, những người khuyết tật này không nằm trong diện mất hoặc không có năng lực hành vi dân sự.

Cụ thể, luật quy định người dưới 18 tuổi, bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể ý thức, làm chủ được hành vi (đã được toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự), người nghiện ma tuý, nghiện chất kích thích mới là những người không có hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Trong khi đó, quy định của Ngân hàng Nhà nước cũng không liệt người khuyết tật câm điếc bẩm sinh vào diện những đối tượng không được mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

"Chỉ khi nào Tòa án tuyên bố mới kết luận ai mất năng lực hành vi dân sự kể cả những trường hợp nghi ngờ các tổ chức cũng không được lắc đầu từ chối họ", luật sư Trương Thanh Đức nhấn mạnh.

Tuy nhiên, cũng theo luật sư, việc nhân viên Vietcombank từ chối mở thẻ có thể hiểu bởi một bộ phận nhân viên ngân hàng chưa nắm được hết pháp lý hoặc chưa thành thạo quy trình mở thẻ cho người khuyết tật. Bởi đối với những người bị khuyết tật ngân hàng phải có quy trình riêng. Khi làm thủ tục mở thẻ, cần phải có người làm chứng thể hiện được khách hàng giao dịch thật, vì họ bị hạn chế về một số thao tác.

Vào những tình huống như thế này, cần suy xét đánh giá ý chí giao dịch của người mở thẻ, phải đảm bảo chữ ký, trong hồ sơ ghi rõ tình trạng như thế nào, cam kết như thế nào thỏa thuận rõ trên giấy tờ chẳng hạn khi giao dịch với nhóm khách hàng này chỉ cần các bước này.

Luật sư cũng cho biết thêm bình thường khi mở thẻ, khách hàng phải đọc, trao đổi, ký kết, ví dụ như với người khiếm thị hoặc khuyết tay sẽ khó khăn và phức tạp hơn nhưng với trường hợp trên, 4 khách hàng bị câm điếc bẩm sinh, vẫn có thể nhìn, đọc hiểu văn bản được, ký kết được,...Đây là tình huống dễ xử lý nhất trong các trường hợp khách hàng là người khuyết tật.

Trước đó, ngày 14/9, anh Phạm Việt Hoài - Chủ tịch HĐQT Công ty CP Kym Việt (đơn vị hoạt động theo mô hình doanh nghiệp xã hội nơi có nhiều người khuyết tật sản xuất thú nhồi cát và quế) – cho biết, sáng ngày 14/9, anh có đi cùng 4 nhân viên đến chi nhánh ngân hàng Vietcombank Thành Công để thực hiện thủ tục mở thẻ ATM.

4 nhân viên của anh Hoài đều đã quá 18 tuổi, sinh năm 1987-1994. Vị Chủ tịch công ty này khi đi làm ATM cho nhân viên cũng mang đầy đủ hồ sơ và có trình bày với ngân hàng về việc đây là những người khuyết tật, bị câm điếc bẩm sinh.

Tuy nhiên, sau khi làm việc với nhân viên ngân hàng, cả 4 khách hàng trên đều bị từ chối cấp mở thẻ ATM với lý do không đủ năng lực hành vi dân sự theo luật định. Đại diện của Vietcombank chi nhánh Thành Công cho biết đây là quy định của Ngân hàng Nhà nước, vì vậy, anh Hoài và 4 nhân viên trên đành ra về.

Sau đó, nhờ sự quen biết của một thành viên trong công ty Kym Việt, nhóm anh Hoài đã đến một chi nhánh khác và được thực hiện mở thẻ bình thường.

Kim Tiền

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

"Từ chối mở thẻ ngân hàng là vi phạm quyền của người khuyết tật"

​Việc từ chối mở thẻ cho người khuyết tật là đang ngăn cản NKT thực hiện quyền công dân, phân biệt đối xử vợi họ...

Sự việc một chi nhánh của Vietcombank từ chối mở thẻ ATM cho 4 người khuyết tật về nghe nhìn bẩm sinh của công ty Kym Việt đang thu hút sự chú ý của dư luận.

Xoay quanh vấn đề này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với bà Lê Mai Hương, đại diện một tổ chức tư vấn và phản biện về chính sách cho lao động là người khuyết tật (NKT).

- Mới đây có trường hợp Vietcombank chi nhánh Thành Công từ chối mở thẻ ATM cho 4 nhân viên của công ty Kym Việt – một đơn vị hoạt động theo mô hình doanh nghiệp xã hội nơi có nhiều người khuyết tật sản xuất thú nhồi bông. Lý do mà cán bộ ngân hàng đưa ra là 4 người kia không đủ năng lực hành vi dân sự, bà có nhận xét gì về động thái từ chối này?

Bà Lê Mai Hương: Trước hết cần khẳng định ngay rằng, trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013 và bộ luật Dân sự sửa đổi đã quy định rõ “không đủ năng lực hành vi dân sự chỉ được khẳng định khi đối tượng hoặc chưa đủ tuổi công dân, hoặc không kiểm soát được hành vi, không có năng lực nhận thức",còn người khuyết tật (NKT) cụ thể về câm, điếc hay còn gọi là khuyết tật nghe nhìn chỉ là bị hạn chế về sức khoẻ, đặc điểm lý tính do khiếm khuyết trên cơ thể gây ra.

Trường hợp 4 bạn ở Kym Việt đã tham gia lao động khi ở tuổi khi được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người công dân (thể hiện ở hồ sơ xin mở thẻ ATM), họ có khả năng nhìn và hiểu việc mình đến ngân hàng gặp ai, để làm gì trong khi đang làm việc như bao người dân khác. Họ chỉ bị hạn chế về giao tiếp do đặc điểm khuyết tật, nên việc giao tiếp với họ cần có sự hỗ trợ từ phương tiện,hình thức khác (có thể viết ra giấy - Họ đã điền và khai vào form được, nghĩa là biết chữ), nhờ người đi cùng có thể phiên dịch giúp. Nếu chưa tìm được hình thức hỗ trợ thì có thể tư vấn, hẹn giải quyết theo cách khác nhằm đáp ứng được nhu cầu của NKT mà vẫn thực hiện đúng chức năng của ngân hàng.

Việc nhân viên Vietcombank Thành Công từ chối tiếp nhận mở thẻ với lý do không đủ năng lực hành vi dân sự là “ấu trĩ”, thể hiện hành vi hạn chế năng lực nhận thức của chính bản thân cán bộ ngân hàng.

Tức là vấn đề nằm ở ngân hàng?

Đúng vậy. Bài toán lúc này đã đảo ngược tình thế: vị nhân viên ngân hàng kia không đủ năng lực, nhận thức thực hiện hành vi dân sự (không kiểm soát khả năng tự giải quyết) trong khi hệ thống ngân hàng đã được phổ biến và đang triển khai rất nhiều chương trình hỗ trợ, phối hợp có hiệu quả với các luật và chính sách có liên quan đến NKT.

Tôi được biết, Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam đã và đang triển khai rất nhiều chương trình dựa trên tinh thần áp dụng hiệu quả các luật và chính sách, trong đó có luật và chính sách liên quan đến NKT, trong đó có cả doanh nghiệp Kym Việt – công ty chuẩn bị trở thành đối tác của ngân hàng này trong thời gian tới.

Vậy phải chăng vị cán bộ ngân hàng kia vô hình chung đã vi phạm quyền của người khuyết tật?

Đây là 1 trường hợp rất điển hình về việc vi phạm quyền của NKT, gây cản trở NKT tham gia vào các hoạt động XH.

Luật NKT đã chỉ rõ: Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.Thái độ khinh thường hoặc thiếu tôn trọng người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó được coi là kỳ thị NKT.

Cũng theo khoản 3, điều 2 Luật NKT quy định về hành vi phân biệt đối xử người khuyết tật là hành vi xa lánh, từ chối, ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó.

Còn trong công ước quốc tế về quyền của NKT tại điểm H. đã thừa nhận rằng phân biệt đối xử chống lại bất kỳ người nào trên cơ sở sự khuyết tật là vi phạm phẩm giá vốn có của con người, ( ngày 28 tháng 11 năm 2014, Quốc hội VN đã ban hành nghị quyết Về việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật).

Bản công ước này đã quy định rõ: Các Quốc gia phải hành động để đảm bảo NKT được hưởng đầy đủ các quyền bình đẳng như những người khác và dựa trên nguyên tắc, không ai bị phân biệt đối xử, người khuyết tật cũng có những quyền giống như mọi người khác trong xã hội.

Khi tham gia công ước này, Chính phủ và các cơ quan đảm bảo sẽ thực hiện công ước này với tất cả các biện pháp để đảm bảo không có trường hợp phân biệt đối xử nào với NKT, đảm bảo mọi thứ đều được thiết kế để cho tất cả mọi người cùng sử dụng hoặc có thể thay đổi dễ dàng, áp dụng công nghệ mới để giúp đỡ NKT, cung cấp thông tin thích hợp và dễ tiếp cận cho NKT về những điều sẽ giúp ích cho họ.

Ngoài ra, điều 13 luật NKT quy định về việc tạo điều kiện về việc làm cho NKT. Mục đích mở thẻ của những người kia là để nhận lương nhưng bị ngân hàng từ chối đã vô tình tạo rào cản tiếp cận khả năng lao động của NKT.

Tùng Lâm

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Thứ Tư, 7 tháng 9, 2016

Giá vàng tiếp tục đi xuống

Mở cửa phiên giao dịch sáng nay, giá vàng trong nước tiếp tục giảm nhẹ từ 30 – 50 nghìn đồng/lượng. So với vàng thế giới, hiện tại giá vàng trong nước đang cao hơn khoảng 670 nghìn đồng mỗi lượng.

Giá vàng miếng SJC niêm yết tại CTCP Vàng bạc đá quý Phú Nhuận (PNJ) sáng nay tại khu vực Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ ở cùng mức giá 36,16 – 36,36 triệu đồng/lượng, khá ổn định so với phiên giao dịch cuối giờ chiều hôm qua. Tại thị trường Hà Nội, giá vàng miếng SJC đang được niêm yết tại công ty PNJ ở mức giá 36,24 – 36,31 triệu đồng/lượng.

Theo đại diện của doanh nghiệp vàng này, lượng giao dịch vàng miếng trong ngày hôm qua không có gì đột biến, do thị trường vàng miếng khá ổn định nên hiện nay một số tổ chức chủ động thu hẹp khoảng cách mua vào và bán ra đối với vàng miếng nhằm kích thích thị trường, cụ thể giá vàng miếng ở PNJ chi nhánh Hà Nội có biên độ chênh lệch giữa mua vào và bán ra chỉ ở mức 70 nghìn đồng/lượng. Đây là mức chênh lệch khá thấp đối với các tổ chức kinh doanh vàng.

Trong khi đó, công ty VBĐQ SJC niêm yết giá vàng miếng ở mức 36,10 – 36,36 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra), giảm 50 nghìn đồng/lượng so với cuối phiên giao dịch hôm qua. Tập đoàn VBĐQ DOJI niêm yết ở mức 36,24 – 36,31 triệu đồng/lượng, giảm 30 nghìn đồng/lượng.

Trên thị trường thế giới, giá vàng phiên 5/9 tăng nhẹ khi USD giảm do giới đầu tư giảm đồn đoán Fed nâng lãi suất. Nhưng, đà tăng chững lại vì chứng khoán toàn cầu tăng điểm.

Cuối phiên giao dịch hôm qua, giá vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.326,33 USD/ounce. Phiên cuối tuần 2/9 giá vàng lên cao nhất 1 tuần ở 1.328,73 USD/ounce sau khi số liệu việc làm phi nông nghiệp tháng 8 không như kỳ vọng. Giá vàng giao tháng 12/2016 trên sàn Comex tăng 0,3% lên 1.330,7 USD/ounce.

Trên thị trường châu Á, giá vàng hiện đang xoay quanh mức 1.325 USD/ounce. Quy đổi tương đương 35,69 triệu đồng/lượng, như vậy hiện tại vàng trong nước đang cao hơn thế giới khoảng 670 nghìn đồng/lượng.

Tiến Phương

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Sacombank, Vietcombank và BIDV hấp dẫn lao động nhất trong số các ngân hàng

JobStreet.com Việt Nam vừa công bố bảng xếp hạng TOP 10 công ty được người lao động lựa chọn là nơi mong muốn làm việc nhất.

Đây là kết quả được JobStreet.com thực hiện khảo sát trên 2.500 người lao động từ nhiều ngành nghề và lĩnh vực hoạt động trong quý II/2016 để tìm ra những DN hàng đầu mà họ khao khát được vào làm việc nhất tại Việt Nam.

Dẫn đầu bảng xếp hạng là DN lớn trong lĩnh vực hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) Công ty Unilever Việt Nam; xếp vị trí thứ 2 và 3 lần lượt là Công ty Sữa Việt Nam (Vinamilk) và Tập đoàn Vingroup. Đây là 2 DN niêm yết trong nước có vốn hóa lớn trên thị trường hiện tại.

Bốn vị trí kế tiếp thuộc lĩnh vực công nghệ chia đều cho cả DN nội lẫn ngoại bao gồm: Samsung, FPT, Viettel và Intel. Ba đại diện cuối danh sách này tiếp tục thuộc về lĩnh vực FMCG là Nestle, P&G, Suntory PepsiCo.

Mạng việc làm JobStreet.com Việt Nam cũng thống kê TOP 5 công ty được người lao động mong muốn làm việc theo 4 lĩnh vực phổ biến hiện tại như FMCG, công nghệ thông tin-viễn thông, bán lẻ và tài chính-ngân hàng.

Kết quả cho thấy, có đến 4/5 đơn vị trong bảng xếp hạng của lĩnh vực FMCG thuộc về các tập đoàn đa quốc gia. Đại diện duy nhất của Việt Nam trong TOP 5 là Vinamilk.

Với bảng xếp hạng doanh nghiệp trong mảng công nghệ thông tin-viễn thông (ICT), các công ty Việt Nam có FPT và Viettel lọt vào danh sách ở vị trí thứ 2 và 3. Dẫn đầu danh sách là Samsung Vina, với thế mạnh về sản xuất phần cứng điện thoại thông minh có thị phần lớn nhất Việt Nam hiện tại. Ở vị trí thứ 4 và 5 lần lượt là Intel và Bosch, những DN cũng có thế mạnh về sản xuất phần cứng lớn trên thế giới.

Trong lĩnh vực phân phối-bán lẻ, các DN nội cho thấy sự lấn át với 4 đại diện là Vingroup, FPT Shop, Viettel Store và Thế giới Di động ở 4 vị trí đầu bảng. Đại diện nước ngoài duy nhất góp mặt là Tập đoàn bán lẻ hàng đầu Nhật Bản - AEON.

Trong khi đó, ở lĩnh vực tài chính-ngân hàng, 3 vị trí dẫn đầu bảng xếp hạng đều thuộc về các ngân hàng nội địa. Đứng ở vị trí thứ nhất và thứ 2 là Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV). Đứng thứ 3 là Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank).

Song song với việc tổng hợp bảng xếp hạng những DN được người lao động mong muốn làm việc nhất, JobStreet.com Việt Nam cũng tìm hiểu thêm những lý do khiến các DN trên trở nên hấp dẫn trong mắt người lao động đến như vậy.

Khá bất ngờ khi các yếu tố liên quan đến lương, thưởng và phúc lợi không phải là những yếu tố hàng đầu được người lao động lựa chọn. Theo đó, có cơ hội rộng mở để phát triển, thăng tiến nghề nghiệp là yếu tố được nhiều người lao động ưu tiên (chiếm 50,7% tổng số bình chọn). Yếu tố thứ 2 khiến người lao động mong muốn được làm việc tại các DN trên là cơ hội được đào tạo một các chuyên nghiệp (44.8%). Các yếu tố về phúc lợi hấp dẫn (44,3%) và mức lương cạnh tranh (33,5%) lần lượt đứng ở vị trí thứ 3 và 4.

Theo Chinhphu.vn

Đọc tiếp »

Mất tiền trong tài khoản, chờ 60 ngày mới giải quyết?

Trong khi các chủ thẻ sốt ruột sau khi tiền trong tài khoản bỗng dưng “bốc hơi” thời gian gần đây, các ngân hàng (NH) lại yêu cầu phải chờ... 60 ngày để xem xét.

Phản ảnh với chúng tôi, chị Phạm Thị Minh Hạnh cho biết khoảng 8g tối 1-9, chị nhận được tin nhắn của Vietcombank cho biết thẻ Visa debit của chị bị trừ hơn 22 triệu đồng dù lúc đó chị đang giữ thẻ trong tay.

“Khi sự việc xảy ra, tôi đã gọi điện lên tổng đài nhưng liên hệ rất khó khăn, cuối cùng mới gặp được nhân viên trực tổng đài để yêu cầu khóa thẻ. Rất may hạn mức chuyển tiền tối đa của tôi mỗi ngày chỉ hơn 20 triệu đồng, chứ nếu không số tiền tôi bị mất không dừng lại ở mức như vậy”, chị Hạnh nói.

Tuy nhiên, sau khi khóa thẻ, chị Hạnh tiếp tục nhận được các tin nhắn cho biết thẻ của chị bị sử dụng để thanh toán nhưng không thành công. “Sáng 5-9, tôi lên làm việc nhưng NH nói phải chờ 60 ngày mới trả lời”, chị Hạnh nói.

Tương tự, anh Lại Huy Đạt (Bình Thạnh) cho biết trước khi nộp 18 triệu đồng vào tài khoản được mở tại ACB ngày 10-8, anh đã cẩn thận đổi ba lần mật khẩu nhưng không hiểu sao sau đó anh nhận được ba tin nhắn với nội dung thông báo rút hết toàn bộ 18 triệu đồng.

Anh Đạt đã khiếu nại NH nhưng NH cũng yêu cầu anh chờ trong 60 ngày.

Trong khi các chủ thẻ cho rằng bị mất tiền mà NH lại yêu cầu chờ đến 60 ngày là quá lâu, lẽ ra cần xử lý sớm hơn nhưng trao đổi với chúng tôi, các NH cho rằng cần thời gian để tra soát giao dịch.

Đại diện Vietcombank cho biết sau khi tra soát giao dịch, nếu không phải do chủ thẻ thực hiện, chủ thẻ không cần phải thanh toán, NH sẽ đòi lại tiền của bên bán và hoàn trả lại cho khách hàng.

“NH cũng hiểu là khách hàng nóng ruột nhưng theo quy định của các tổ chức thẻ quốc tế, thời gian trả lời các tra soát là trong vòng 45 ngày. Trong trường hợp bên đối tác không trả lời, NH sẽ áp dụng biện pháp khác. Do vậy thời gian 60 ngày là hợp lý. Trong trường hợp chủ thẻ cần tiền để chi tiêu gấp, NH xem xét cách giải quyết”, vị đại diện này nói.

Với trường hợp anh Đạt, đại diện ACB cũng cho biết đang thực hiện tra soát. Trường hợp khiếu nại của khách hàng là đúng, NH sẽ hoàn trả tiền cho khách hàng. Được biết ngày 9-9, NH sẽ có buổi làm việc với anh Đạt để giải quyết vụ việc.

Theo A.H.

Tuổi trẻ

Đọc tiếp »

Một vài ngân hàng đang phải lên "dây cót" huy động vốn

Có ngân hàng liên tục điều chỉnh tăng lãi suất tiết kiệm nhằm thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư bởi trong thời gian gần đây, tốc độ tăng trưởng huy động vốn của nhà băng này giảm rất mạnh.

Mới đây, trên thị trường đã xuất hiện một vài ngân hàng rục rịch tăng lãi suất huy động nhằm cân đối nguồn vốn đẩy ra nền kinh tế.

Theo khung lãi suất mới nhất được áp dụng từ ngày 1/9, VPBank lại điều chỉnh lãi suất ở các kỳ hạn ngắn.

Cụ thể, ngân hàng tăng lãi suất huy động kỳ hạn 1 tháng thêm 0,2% từ 4,8% lên 5,0%; tăng lãi suất huy động kỳ hạn 2 tháng thêm 0,2% từ 5,0% lên 5,2%; tăng lãi suất huy động kỳ hạn 3 tháng thêm 0,1% từ 5,2% lên 5,3%.

Ở các khoản tiền gửi lớn từ 5 tỷ trở lên, hiện lãi suất huy động kỳ hạn 5 tháng là 5,5%, kỳ hạn 6 tháng 6,5%, kỳ hạn 7 tháng 6,6%, kỳ hạn 8-11 tháng 6,7% và kỳ hạn 12 tháng 6,9%. Bên cạnh đó, VPBank cũng điều chỉnh tăng 0,1% lần lượt đối với các kỳ hạn 13 và 15 tháng, lên 7%.

Trước đó, hồi đầu tháng 7, biểu lãi suất huy động mới áp dụng từ ngày 01/07/2016, VPBank điều chỉnh tăng ở hầu hết các kỳ hạn, trong đó kỳ hạn 5-12 tháng tăng 0,3% so với biểu lãi suất áp dụng từ cuối tháng 5.

Sau khi đi ngược chiều với hàng loạt ngân hàng khác - họ chạy đua tăng lãi suất thì VPBank lại giảm nhẹ lãi suất tiết kiệm thì bắt đầu từ tháng 7 đến nay, nhà băng này liên tục điều chỉnh tăng trở lại.

Một trường hợp khác, từ cuối năm trước đến nay Eximbank là ngân hàng luôn cần mẫn tăng lãi suất huy động. Ngày 25/8, Eximbank đã điều chỉnh tăng bảng lãi suất huy động ở các kỳ hạn dài. Theo đó, lãi suất huy động kỳ hạn 1 tháng ở mức 4,6%; kỳ hạn 2 tháng và 3 tháng lần lượt ở mức 4,8% và 5,2%, đặc biệt là kỳ hạn 7 tháng lên 5,9%, kỳ hạn 9 tháng lên 6%.

Ở kỳ hạn 13 tháng, lãi cuối kỳ, đối với tài khoản tiền gửi, tiết kiệm mở mới với mức gửi từ 500 tỷ đồng trở lên, lãi suất của ngân hàng lên tới 7,5%/năm. Đây cũng là mức lãi suất hấp dẫn nhất trên hệ thống hiện nay.

Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, việc tăng lãi suất chỉ là hiện tượng nhỏ lẻ tại một vài ngân hàng như Maritime Bank, Đông Á,...muốn thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư, những ngân hàng quốc doanh, lãi suất vẫn đang đứng yên.

Những ngân hàng trên tăng lãi suất đầu vào cũng là điều dễ hiểu bởi tốc độ tăng trưởng huy động vốn của họ giảm hoặc tăng trưởng rất thấp trong thời gian gần đây. Ví dụ như VPBank. Trong nửa đầu năm, cho vay khách hàng đạt 118 nghìn tỷ đồng, tăng vỏn vẹn 1,7%. Tiền gửi của khách hàng cũng chỉ ở mức ngang bằng số cho vay khách hàng - 118 nghìn tỷ đồng, giảm 9% so với đầu năm, trái ngược hoàn toàn so với các ngân hàng khác, huy động vốn luôn tăng trưởng ở mức cao.

Trong khi đó, Báo cáo của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia cho biết, tính đến cuối tháng 8, vốn huy động của các tổ chức tín dụng tăng khoảng 11% so với đầu năm, nhưng tín dụng chỉ tăng ở mức tương đương so cùng kỳ năm trước 9,2% và chưa có dấu hiệu bứt phá trong quý 3 năm nay. Điều này cho thấy ngân hàng đang dư thừa tiền và không cho vay được.

Trên thị trường liên ngân hàng, báo cáo mới đây cho thấy, lãi suất liên ngân hàng đang ở mức thấp nhất trong lịch sử. Vài năm qua, mức lãi suất tiền đồng trên thị trường liên ngân hàng tụt xuống dưới 2% đã được coi là thấp. Nhưng trong nhiều tuần qua, mức lãi suất này vẫn liên tiếp giảm dần, đến nay giảm mạnh về mức thấp kỷ lục trong lịch sử nhiều năm trên thị trường tiền tệ sơ cấp: dưới 0,5%/năm. Điều này cho thấy các ngân hàng tiếp tục dư thừa thanh khoản trong hệ thống.

Kim Tiền

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Tín dụng tiêu dùng gây chú ý vì dễ vay, linh hoạt

Ở Việt Nam, dịch vụ này chỉ mới nở rộ trong thời gian gần đây và chiếm khoảng gần 12%/tổng dư nợ, nhưng cho vay tiêu dùng gây chú vì điều kiện hấp dẫn nhưng lãi suất luôn cao.

“Cho vay tiêu dùng được nhận định là lĩnh vực có rất nhiều tiềm năng để phát triển, tuy nhiên do công tác truyền thông chưa tốt nên không mấy người tường tận về bản chất của tín dụng tiêu dùng” - Ông Phạm Xuân Hòe, Phó Viện trưởng Phụ trách Viện Chiến lược ngân hàng khẳng định như vậy khi trao đổi với PV .

PV: Thưa ông, gần đây trong dư luận đang lùm xùm câu chuyện lãi suất cho vay tiêu dùng của các công ty tài chính (CTTC) quá cao. Là chuyên gia trong lĩnh vực này, ông nhận định ra sao về vấn đề này?

Ông Phạm Xuân Hoè: Gần đây tôi cũng có nghe nhắc tới và có trực tiếp theo dõi một số vụ việc liên quan đến phàn nàn của khách hàng rằng lãi suất vay tiêu dùng của các CTTC quá cao. Qua quan sát, tôi khẳng định rằng đây là nhóm khách hàng có mức độ rủi ro cao, nên khi ký hợp đồng vay họ phải chịu lãi suất cao hơn một số nhóm khách hàng khác. Theo thống kê của một số các CTTC thì cho thấy, khoản vay có lãi suất cao chỉ cỡ khoảng trên 10%/tổng dư nợ. Như vậy số khách hàng phải chịu mức lãi suất cao là không quá lớn trong tổng thể cho vay tiêu dùng của các CTTC.

PV: Từng trực tiếp làm việc tại ngân hàng thương mại (NHTM), nay chuyển sang làm công tác nghiên cứu, xây dựng chính sách, ông có thể cho biết rõ nguyên nhân nào khiến lãi suất cho vay tiêu dùng lại cao?

Ông Phạm Xuân Hoè: Theo tôi, ngoài yếu tố rủi ro dẫn tới lãi suất cao, hoạt động định giá cho vay tiêu dùng cũng rất khác với các lĩnh vực cho vay khác.

Thứ nhất nguồn lãi suất đầu vào của các CTTC thường cao, bởi do không được phép huy động tiền gửi từ dân cư, nguồn vốn hoạt động của họ chủ yếu bằng vốn tự có hoặc thông qua phát hành trái phiếu trên thị trường.

Thứ hai, chi phí hoạt động của các CTTC là khá cao do bởi tuy trụ sở chính ở các thành phố lớn nhưng điểm giới thiệu dịch vụ và cho vay của họ lại trải khắp toàn quốc, đặc thù đó buộc họ phải thiết lập được một đội ngũ nhân viên hùng hậu và đông đảo để đáp ứng được mọi nhu cầu của người dân. Trong khi, một món vay dù lớn hay nhỏ lẻ cũng phải trải qua quy trình làm hồ sơ, cho dù thủ tục của CTTC có đơn giản hơn so với các NHTM song vẫn phải thiết lập một bộ máy để quản lý, theo dõi món vay, làm thủ tục cho vay...

Ví như với món vay 1 triệu đồng thì chi phí công tác trả cho cán bộ tín dụng ở CTTC là 50.000 đồng. Theo đó, phí lãi suất sẽ là 5%/năm; cộng với mua bản vấn tin của Trung tâm Thông tin Tín dụng Quốc gia (CIC) khoảng 30-50 nghìn đồng. Chỉ riêng chừng đó thôi cộng lại cũng đã đẩy lãi suất lên cao hơn so với lãi suất của NHTM..

Thứ ba, khác với NHTM, CTTC phải trích phần bù rủi ro tín dụng. Bởi vì, phần lớn khách hàng của họ đều là những người dưới chuẩn vay ngân hàng, các món vay lại chủ yếu là thông qua tín chấp bằng giấy tờ tùy thân, cho nên rủi ro đối với món vay đó sẽ rất cao. Theo nguyên lý, để thống kê rủi ro, CTTC phải thống kê rủi ro trong lịch sử, xác suất vỡ nợ của khách hàng là bao nhiêu, sau đó tính ra được phần bù rủi ro. Và khoản bù rủi ro này sẽ cộng vào lãi suất món vay.

Thứ tư, là phần bù rủi ro thanh khoản. Khi các CTTC thực hiện các khoản cho vay trung dài hạn, mua xe máy, phương tiện đắt tiền, thì rõ ràng món vay cũng đã mang tính chất có thời hạn trung hạn, trong khi nguồn vốn các công ty TCTD huy động qua trái phiếu cùng lắm cũng chỉ 1 năm. Như vậy, họ phải quay 3 lần, 5 lần nguồn vốn huy động 1 năm mới đáp ứng được nhu cầu khoản vay từ 3-5 năm. Chính điều này đã làm chi phí cho phần thanh khoản gia tăng, khiến cho lãi suất vay tiêu dùng tăng.

Cuối cùng là lợi nhuận biên của CTTC trong bán lẻ rõ ràng bao giờ cũng phải đạt tỷ lệ cao hơn. Do tích góp món rất nhỏ, cho nên nếu không có lợi nhuận biên cao thì CTTC không đủ bù đắp hoàn vốn cũng như tích lũy vốn cho mình, chưa kể đã là doanh nghiệp thì họ còn phải đóng thuế…

PV: Nói như vậy, yêu cầu mà khách hàng đặt ra cho CTTC đang có phần khắt khe, thưa ông?

Ông Phạm Xuân Hoè: Ở đây, chúng ta cần phải tách bạch rõ ràng giữa những chính sách hỗ trợ với cho vay theo nguyên tắc của kinh tế thị trường. Đã kinh doanh thì buộc phải tuân theo nguyên lý thị trường, lợi nhuận phải đủ bù đắp chi phí và rủi ro, tái tạo bộ máy phát triển và đóng góp nghĩa vụ vào ngân sách nhà nước. Nghĩa là, đã kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, nguyên tắc tiên quyết là không được lẫn lộn trong câu chuyện bảo vệ người yếu thế, thu nhập thấp trong việc chủ động chính sách. Nếu không khách quan, không cẩn thận sẽ làm méo mó về mặt chính sách!

Trên thực tế, sự đóng góp của tín dụng tiêu dùng đối với nền kinh tế là không nhỏ, nó đã mang lại nhiều điều tốt đẹp, hỗ trợ cho người vay, giúp nhiều hộ gia đình công nhân tích lũy tài sản, chi tiêu thông minh nhất. Ví như hai vợ chồng cùng làm công nhân ở khu công nghiệp. Với tổng thu nhập từ 7-8 triệu đồng/tháng, nếu muốn mua 1 chiếc xe máy có giá 15 triệu đồng thì phải tiết kiệm trong thời gian rất lâu mới có thể mua được. Tuy nhiên, khi vay tín dụng tiêu dùng, họ sẽ được sở hữu ngay chiếc xe máy mình cần và chỉ việc tích lũy trả dần bằng chính thu nhập của mình. Về mặt vi mô, điều này đã tác động tích cực tới việc tích lũy tài sản, khiến cho việc chi tiêu có kế hoạch hơn, thông minh hơn trong cơ chế thị trường.

Tuy nhiên, cũng có thể có một số trường hợp, tình huống là khi được CTTC giải quyết nhu cầu vay, khách hàngquên không nghiên cứu kỹ hợp đồng mà cứ thế ký. Đến khi muốn trả trước món nợ vay thì bị tính phí trả trước, hoặc quá hạn lại bị tính lãi phạt thì kêu ca phàn nàn là CTTC không thông báo rõ những quy định trên. Tuy nhiên, cuộc sống muôn màu, muôn vẻ, có mặt tốt thì tất yếu sẽ có mặt không mong muốn xảy ra, không bao giờ sự việc tròn vo và đẹp đẽ ngay được..

PV: Vậy theo ông, phải làm sao để có thể hài hòa lợi ích của cả khách hàng lẫn CTTC, nhất là để khách hàng tự bảo vệ mình khi thực hiện hợp đồng vay vốn?

Ông Phạm Xuân Hoè: Ở đây, chúng ta phải đề cập tới câu chuyện giáo dục tài chính toàn diện cho người dân, trong đó có vai trò của các cơ quan nhà nước, cũng như của các cơ quan truyền thông, để giúp người dân tiếp cận được những kiến thức đơn giản về tài chính. Cách quản lý đơn giản nhất là phải minh bạch những điểm mấu chốt như: niêm yết lãi suất, phương thức thu hồi lãi, phí phạt, phí trả trước…

Tóm lại là tất cả những nội dung quan trọng để quan hệ giữa khách hàng và tổ chức cho vay phải thực sự bình đẳng, không thiên vị bất cứ bên nào. Vì đây là hợp đồng dân sự thỏa thuận, nên phải khách quan giữa hai bên. Khi các cơ quan nhà nước quan tâm chuẩn hóa các hợp đồng, thì tự họ sẽ giải quyết theo quy định của pháp luật. Làm như vậy thì thị trường sẽ tự giải quyết, còn bàn tay của Nhà nước là kiến tạo, quản lý nó theo xu hướng phát triển.

Hiện nay ở một số nước như Philipines, Ấn Độ, Malaysia… tỷ lệ cho vay tiêu dùng chiếm tới 25-30%/tổng dư nợ. Tuy nhiên, ở Việt Nam, dịch vụ này chỉ mới nở rộ trong thời gian gần đây và chiếm khoảng gần 12%/tổng dư nợ (Số liệu đến cuối năm 2015). Như vậy, mức độ tăng trưởng là rất thấp so với các nước và còn có rất nhiều tiềm năng để phát triển. Xét về ý nghĩa đối với kinh tế vĩ mô, vay tiêu dùng đã góp phần kích cầu, tăng tổng cầu, hỗ trợ phát triển kinh tế, trong khi về ý nghĩa vi mô, nó đã giúp cho một nhóm khách hàng không đủ các điều kiện đáp ứng được chuẩn rủi ro của NHTM thì chuyển sang vay các công ty tài chính hay các công ty phi tài chính.

PV: Xin cảm ơn ông!

Theo Đức Kiên (thực hiện)

Infonet

Đọc tiếp »

Dùng tiền ngân sách xử lý nợ xấu có phải là phương án khả thi?

Một trong những điểm gây bàn cãi trong Dự thảo kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là đề xuất sử dụng ngân sách Nhà nước để xử lý nợ xấu. Liệu đề xuất này có khả thi? Và làm sao để sử dụng ngân sách xử lý nợ xấu?

Đề xuất sử dụng ngân sách để xử lý nợ xấu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư mới đây vấp phải nhiều ý kiến trái chiều. Trong đó có ý kiến cho rằng: dùng ngân sách xử lý nợ xấu là “dùng tiền công lo việc tư”.

Trả lời ý kiến trên, ông Dương Quốc Anh – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho biết: Ủy ban Kinh tế chưa nhận được tờ trình nào về vấn đề này.

Tuy nhiên, theo ông Quốc Anh, kinh nghiệm của các nước là các tổ chức tín dụng phải có trách nhiệm xử lý nợ xấu. Nếu trong điều kiện khủng hoảng, các ngân hàng, tổ chức tín dụng không xử lý nổi nợ xấu thì sẽ bán lại cho cơ quan quản lý nợ xấu nhà nước theo giá thị trường.

“Ở nước ta hiện nay cũng đang hành xử với nợ xấu ngân hàng theo cách này”, ông Quốc Anh nhận định.

Chúng ta cần xác định có 4 nguồn chính cung cấp nguồn lực cho quốc gia: từ hộ gia đình, từ doanh nghiệp, từ ngân sách và từ nhà đầu tư nước ngoài, ông Quốc Anh cho biết.

Tuy nhiên, ông cũng nhận định “Nguồn lực để xử lý được nợ xấu hiện nay ở nước ta chủ yếu phải dựa vào ngân sách nhà nước”. Bởi doanh nghiệp trong nước còn nhỏ yếu, nhà đầu tư nước ngoài thì vướng ở quyền sử dụng đất nên họ không mặn mà.

Xử lý nợ xấu ở Việt Nam qua vài năm đã hiện ra nhiều vướng mắc, khó khăn. Đó cũng là lý do tại sao nợ xấu ở VAMC vẫn rối như mớ bòng bong. Vậy, nút thắt của nợ xấu ở đâu?

Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu cho biết: Từ trước tới giờ Việt Nam chưa thực sự có thị trường mua bán nợ xấu. Mua nợ xấu ở đây vẫn là VAMC mua, rồi phát hành trái phiếu đặc biệt cho ngân hàng. Vậy là, dù bán nợ đi nhưng ngân hàng không được gì ngoài tờ giấy trái phiếu đặc biệt. “VAMC chỉ như bãi đỗ xe của nợ xấu mà thôi”.

Nhận xét về đề xuất dùng ngân sách xử lý nợ xấu, ông Hiếu cho rằng đây là một phương án rất khả thi. Tuy nhiên, phải có phương án rõ ràng.

“Chúng ta cần xây dựng thị trường mua bán nợ xấu minh bạch, rõ ràng và mang tính thị trường. Nghĩa là nợ xấu được mua bằng tiền tươi thóc thật, ngân hàng bán nợ xấu sẽ nhận được tiền mặt”, ông Hiếu hiến kế.

Phân tích thêm, ông Hiếu cho biết: từ trước tới giờ VAMC mua với giá trị nợ xấu trên giấy tờ, trừ chi phí dự phòng. Bây giờ, dùng ngân sách thì cần mua bằng giá thị trường, giá trị thật của khoản nợ. “Nghĩa là bây giờ mua nợ xấu cần triết khấu và triết khấu có thể lên tới 90%, còn lại 10% giá trị thực”.

“Nếu không làm được như vậy thì khó mà đi vào thực chất của vấn đề”, ông Hiếu khẳng định.

Trước quan ngại về vấn đề, nếu triết khấu và mua với giá trị thấp như vậy thì các ngân hàng sẽ “thiệt hại” lớn, ông Hiếu cho biết: “Đây đúng là sự thiệt hại cho ngân hàng. Tuy nhiên, nếu món nợ đã quá tệ mà vẫn giữ trên sổ sách với giá trị ảo, thì ngân hàng sẽ chỉ tự giết mình thôi”.

Ông Hiếu phân tích: Mang trong mình một tài sản độc hại với giá trị ảo, ngân hàng sẽ không sống thực bằng cơ thể của mình. Do, ngân hàng vẫn hạch toán lãi dự thu cho những khoản nợ xấu, thực chất là không có.

“Và như vậy lợi nhuận cũng chỉ là ảo”. Giả sử trường hợp cổ đông đòi chia cổ tức khác nào ngân hàng lấy tiền túi ra trả cho mình. “Như vậy, cổ đông vui sướng nhưng lại không biết là mình đang ăn thịt mình”, ông Hiếu đưa ví dụ.

Theo ông Hiếu: Muốn thay đổi được cục diện, chúng ta phải thay đổi cách hành xử với nợ xấu. Nghĩa là phải mua nó với giá trị thực và ngân hàng chịu lỗ.

Ông Hiếu cho biết: thực ra thiệt hại, cái “lỗ” đó đã nằm trong ngân hàng rồi, nhưng bây giờ chỉ là thể hiện rõ ràng trên sổ sách mà thôi. Và bây giờ ngân hàng buộc phải hạch toán cái “lỗ” đó.

“Điều này góp phần làm minh bạch thị trường tài chính và tình trạng ngân hàng hiện nay”, ông Hiếu nhận định.

Theo công bố của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống cuối tháng 6-2016 là 2,58%, mặc dù giảm 0,2% so với tháng 5 nhưng vẫn cao hơn mức 2,55% vào cuối năm 2015.

Thống kê báo cáo tài chính quý II năm 2016 của 15 ngân hàng thương mại mới đây cho thấy, tổng nợ xấu của các ngân hàng này đã tăng 10.420 tỉ đồng so với đầu năm, tỷ lệ nợ xấu tăng từ 1,6% lên 1,83%. Trong đó, 11/15 ngân hàng có nợ xấu tăng, đứng đầu là BIDV, Eximbank, Sacombank, SHB.

Cùng vấn đề nợ xấu đang có dấu hiệu gia tăng ở các ngân hàng thì sau hơn ba năm hoạt động, VAMC cũng mới chỉ mới xử lý được khoảng 15% nợ xấu trong tổng số 251.000 tỉ đồng nợ xấu mua vào. Đây chính là thời điểm cần thiết có một phương án khả thi hơn với nợ xấu.

Theo Nguyễn Thoan

BizLIVE

Đọc tiếp »

Thêm chủ thẻ Vietcombank mất hơn 20 triệu đồng

Ngày 6-9, phản ánh đến chúng tôi, chị Phạm Thị Minh Hạnh cho biết tối 1-9, khi chị đang đi với bạn ở bên ngoài thì điện thoại báo có tin nhắn từ thẻ Visa Debit của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) liên tục thông báo tài khoản phát sinh giao dịch. Tổng cộng, có 4 giao dịch thành công với tổng số tiền hơn 20 triệu.

Chị Minh Hạnh đã lập tức liên hệ với tổng đài 24/7 của Vietcombank. Phải mất thời gian rất lâu, chị mới liên hệ được với nhân viên trực tổng đài yêu cầu khóa thẻ.

“Cũng may là hạn mức chuyển tiền mỗi ngày của tôi chỉ hơn 20 triệu đồng, nếu không thì số tiền mất sẽ rất lớn vì trong tài khoản thẻ Visa Debit tôi để khá nhiều tiền do chuẩn bị đi công tác nước ngoài” - chị Hạnh cho biết.

Sau đó, chị Hạnh đến Vietcombank Chi nhánh Bình Thạnh phản ánh nhưng nhân viên thông báo phải chờ 60 ngày để ngân hàng tra soát mới có trả lời chính thức.

Trao đổi với phóng viên, đại diện Vietcombank cho biết đã có buổi làm việc với khách hàng vào chiều 6-9 để xử lý vụ việc.

“Vietcombank đã đồng ý ứng trước khoản tiền tôi bị mất trong tài khoản thẻ, trước khi có kết quả tra soát. Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy lo lắng vì mỗi lần thanh toán thẻ đều rất cẩn thận, không có chuyện để lộ thông tin” - chị Hạnh băn khoăn.

Theo T.Phương

Người lao động

Đọc tiếp »

Tái cơ cấu ngân hàng giai đoạn 2: Đường chông gai phía trước

Nhìn lại kết quả tái cơ cấu ngân hàng giai đoạn 1 và bối cảnh hiện tại, phải nói rằng các mục tiêu đề ra cho giai đoạn 2 như trong dự thảo là vô cùng thách thức.

Dự thảo Đề án Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016 – 2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hé lộ các mục tiêu cụ thể của tái cơ cấu ngân hàng đến năm 2020: (1) Tiếp tục cắt giảm tỷ lệ nợ xấu một cách bền vững và cắt giảm đáng kể số NHTM yếu kém; (2) Kéo lãi suất cho vay xuống mức trung bình của các nước đang phát triển là khoảng 5%; (3) Đảm bảo 70% số ngân hàng thương mại thực hiện đầy đủ Basel II vào năm 2020.

Các mục tiêu trên là định hướng cần thiết để xây dựng một hệ thống tài chính – ngân hàng an toàn, hiệu quả. Tuy nhiên, nhìn lại kết quả tái cơ cấu ngân hàng giai đoạn 1 và bối cảnh hiện tại, phải nói rằng đây là những mục tiêu đầy thách thức.

Tâm điểm vẫn là xử lý nợ xấu

Xử lý nợ xấu là mục tiêu quan trọng nhất trong tái cơ cấu ngân hàng. Nợ xấu được xử lý mới giải phóng nguồn vốn, giảm chi phí, tăng sức mạnh tài chính của ngân hàng, từ đó giảm lãi suất, thúc đẩy tín dụng và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Quay lại thời điểm khởi động tái cơ cấu ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu do Cơ quan Thanh tra giám sát của NHNN công bố là 8,6% tại tháng 3/2012, tương đương khoảng 239,4 nghìn tỷ đồng (tổng dư nợ là 2,78 triệu tỷ). Đến cuối tháng 6/2016, tổng nợ xấu theo báo cáo của các TCTD ước khoảng 130 nghìn tỷ, cộng với 217 nghìn tỷ đang còn tồn ở VAMC thì tổng nợ xấu là 347 nghìn tỷ, tương ứng tỷ lệ nợ xấu khoảng 6,89%. Nghĩa là sau hơn 5 năm, tỷ lệ nợ xấu giảm nhưng tổng nợ xấu đã tăng 107,5 nghìn tỷ. Cần nói thêm, tỷ lệ nợ xấu 6,89% tại tháng 6/2016 cũng chỉ là bề nổi bởi tình trạng che giấu nợ xấu vẫn còn tại nhiều TCTD.

Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về kết quả tái cơ cấu giai đoạn 2011-2015, nợ xấu đã xử lý được một bước quan trọng nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với an toàn, hiệu quả hoạt động của các TCTD. Việc xử lý nợ xấu đã mua của VAMC còn chậm do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Giới chuyên môn cho rằng hai rào cản lớn nhất trong xử lý nợ xấu là việc các TCTD không thể chủ động xử lý tài sản đảm bảo và Việt Nam chưa có thị trường mua bán nợ đúng nghĩa. Muốn gỡ bỏ hai rào cản ấy không phải dễ, bởi phải có sự thay đổi đột phá về quan điểm và cần nhanh chóng sửa đổi đồng loạt các Luật và quy định liên quan. Điều này đã được NHNN, các NHTM và các chuyên gia đề xuất nhiều năm nay vẫn chưa có biến chuyển lớn. Cộng thêm sự bấp bênh của tăng trưởng kinh tế và thị trường bất động sản khó phục hồi mạnh, nhiệm vụ xử lý nợ xấu sẽ tiếp tục là nhiệm vụ khó khăn nhất trong tái cơ cấu ngân hàng. Có lẽ vì vậy mà NHNN đã ban hành Thông tư 08/2016 cho phép các TCTD được gia hạn thời gian trích lập dự phòng trái phiếu đặc biệt từ tối đa 5 năm thành 10 năm.

Cắt giảm số ngân hàng yếu kém: Sáp nhập, tự tái cơ cấu hay phá sản?

Đầu năm 2012, NHNN đã phân loại các NHTM thành 4 nhóm, trong đó nhóm 4 gồm có 9 NHTM cổ phần yếu kém đã phải thực hiện tái cơ cấu bắt buộc thông qua các hình thức hợp nhất, sáp nhập hoặc tự tái cơ cấu. Cho đến nay, nhiều trường hợp trong số này dù đã tái cơ cấu nhưng vẫn chưa có những tiến triển rõ rệt. Không những thế, tái cơ cấu giai đoạn 1 đã chính thức thất bại tại 3 trong số 9 ngân hàng yếu kém và NHNN phải mua lại các ngân hàng này trong năm 2015 với giá 0 đồng, thực chất là “tạm” dùng nguồn lực của Nhà nước để ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ có thể lan truyền ra toàn hệ thống.

Cũng trong năm 2015, có thêm ba ngân hàng nổi lên như những điểm nóng mới là DongA Bank, Sacombank và Eximbank với những sai phạm về tài chính, cho vay và ồn ào trong cơ cấu sở hữu. NHNN đã phải tính việc đưa nhân sự của mình tham gia điều hành, giám sát các ngân hàng này.

Trong dự thảo đề án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đề xuất áp dụng giải pháp cho phá sản đối với các TCTD yếu kém. Đây là giải pháp cần tính đến trong bối cảnh các giải pháp hợp nhất, sáp nhập chưa đem lại hiệu quả rõ ràng. Tuy nhiên, giá như nó được thực hiện từ những năm trước, còn trong giai đoạn hiện tại, một quyết định phá sản ngân hàng sẽ chịu nhiều áp lực hơn bởi sau một thời gian “lỗ chồng lỗ” thì lỗ lũy kế và nghĩa vụ nợ ròng của nhiều ngân hàng đã tăng lên con số khủng khiếp.

Khó giảm lãi suất cho vay về 5%

Điểm khó hiểu trong dự thảo đề án là mục tiêu đưa lãi suất cho vay về mức 5% lại đi kèm mục tiêu “duy trì ổn định lạm phát và neo kỳ vọng lạm phát ở mức 5%/năm”, nghĩa là người gửi tiền phải chịu lãi suất thực âm nếu trừ đi lạm phát. Hiện tại chênh lệch lãi suất cho vay và huy động của ngân hàng ít nhất ở mức 2%-3% mới đủ bù các chi phí hoạt động và có lãi. Nếu vậy lạm phát phải khoảng 2% trở xuống thì lãi suất huy động mới thực dương. Nhưng mức lạm phát ấy không phù hợp với định hướng tăng trưởng và tính “dễ tổn thương” của kinh tế Việt Nam. Ngoài ra, lãi suất cho vay còn chịu nhiều áp lực từ yêu cầu ổn định tỷ giá và nhu cầu phát hành trái phiếu chính phủ để bù đắp thâm hụt ngân sách, đầu tư, trả nợ.

Mục tiêu giảm lãi suất cũng phụ thuộc nhiều vào kết quả xử lý nợ xấu và tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém. Chi phí dự phòng và chi phí vốn cho khoản “tiền chết” ở nợ xấu đang tạo ra rào cản lớn khiến các ngân hàng khó có thể giảm lãi suất cho vay. Bên cạnh đó, các ngân hàng yếu kém với uy tín thấp cùng với nợ xấu và rủi ro thanh khoản cao nên luôn tiềm ẩn nguy cơ chạy đua lãi suất huy động, từ đó ảnh hưởng xấu đến lãi suất cho vay.

Basel II và áp lực tăng vốn

Trong 3 trụ cột của Basel II, trụ cột yêu cầu về vốn tối thiểu là khó đáp ứng nhất. Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) tối thiểu theo Basel II là 8%, mặc dù thấp hơn mức 9% hiện tại nhưng cách tính CAR của Basel II khắt khe hơn do ngoài rủi ro tín dụng, Basel II còn tính đến yêu cầu vốn đối với rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường.

Do đó khi áp dụng Basel II, CAR của nhiều ngân hàng sẽ giảm và những ngân hàng có CAR xung quanh 9% sẽ phải tính đến phương án tăng vốn. Việc tăng phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ thời gian qua ít thành công do giá cổ phiếu và cổ tức thấp, nhà đầu tư cũng ngại rủi ro trong quá trình tái cơ cấu. Vì vậy, nhiều ngân hàng đang tăng vốn bằng cách giữ lại lợi nhuận, chia cổ tức bằng cổ phiếu hoặc phát hành trái phiếu. Bên cạnh đó, giải pháp nới room ngoại và các giới hạn sở hữu của cổ đông trong nước cũng đang được các cơ quan chức năng tính đến. Bài toán tăng vốn nói riêng và đáp ứng Basel II nói chung sẽ cần nhiều thời gian. Nhưng thời gian 5 năm có khi lại quá ngắn đối với các ngân hàng nhỏ, ngân hàng yếu kém vì họ đang phải lo “tồn tại” trước khi có thể nghĩ đến “sống khỏe”.

Phong Hiếu

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

Giá vàng quay đầu tăng mạnh sau 2 phiên giảm liên tiếp

Mở cửa phiên giao dịch sáng nay, giá vàng trong nước tăng mạnh cùng thế giới, chênh lệch với vàng thế giới chỉ còn chưa đến 300 nghìn đồng mỗi lượng.

Công ty VBĐQ SJC niêm yết giá vàng miếng ở mức 36,34 – 36,62 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra), tăng 220 nghìn đồng/lượng so với phiên giao dịch cuối ngày hôm qua. Tập đoàn VBĐQ DOJI niêm yết ở mức 33,47 – 36,55 triệu đồng/lượng, tăng 350 nghìn đồng/lượng.

Trên thị trường thế giới, giá vàng hôm 6/9 tăng gần 2%, phiên tăng lớn nhất kể từ tháng 6, khi số liệu kinh tế Mỹ gây thất vọng, kéo giảm đồn đoán Fed nâng lãi suất.

Theo số liệu mới công bố, số đơn hàng mới lĩnh vực phi sản xuất của Mỹ trong tháng 8 giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 12/2013.

Cuối phiên giao dịch hôm qua, giá vàng giao ngay tăng 1,73% lên 1.349,29 USD/ounce. Giá vàng giao tháng 12/2016 trên sàn Comex tăng 2% lên 1.345 USD/ounce, cao nhất kể từ 18/8.

Giá vàng giao ngay đã tăng 4 phiên liên tiếp lên mức đỉnh của phiên ở 1.351,84 USD/ounce, tăng 1,9%, mức tăng lớn nhất kể từ 24/6.

Trên thị trường châu Á, giá vàng hiện đang xoay quanh mức 1.350 USD/ounce, tăng 25 USD/ounce so với phiên giao dịch hôm qua. Quy đổi tương đương 36,35 triệu đồng/lượng, như vậy hiện tại vàng trong nước đang cao hơn thế giới khoảng 270 nghìn đồng/lượng.

Tiến Phương

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »

[Hồ sơ vụ án Phạm Công Danh]: Bị cáo Hoàng Đình Quyết

Phiên tòa xét xử Phạm Công Danh và 35 đồng phạm gây thất thoát hơn 9.000 tỷ đồng xảy ra tại Ngân hàng Xây dựng đã qua hơn 40 ngày xét xử và đang trong thời gian nghị án. Bản án sơ thẩm cho các bị cáo sẽ được Hội đồng xét xử Tòa án Nhân dân Tp. Hồ Chí Minh đưa ra vào ngày 9/9 tới đây.

Trong 36 bị cáo, Hoàng Đình Quyết, cựu giám đốc VNCB chi nhánh Lam Giang bị khởi tố ở hai hành vi cố ý làm trái và cho vay sai quy định.

Về hành vi cố ý làm trái, theo cáo trạng, bị cáo Quyết là người tham gia thực hiện việc rút 5.190 tỷ đồng tại VNCB nhưng không được sự đồng ý và không có chữ ký của chủ tài khoản Trần Ngọc Bích tại VNCB trên các Ủy nhiệm chi; tham gia thực hiện việc phát hành, ủy thác đầu tư trái phiếu trái quy định để rút tiền cho Phạm Công Danh sử dụng, gây thiệt hại cho VNCB. Hoàng Đình Quyết phải chịu trách nhiệm liên đới với số tiền 6.093 tỷ đồng.

Về hành vi vi phạm quy định về cho vay tại các tổ chức tín dụng, bị cáo Hoàng Đình Quyết có vi phạm trong việc đồng ý sử dụng đất đai của Tập đoàn Thiên Thanh để bảo lãnh, cấp tín dụng cho các công ty thuộc Tập đoàn Thiên Thanh và thẩm định thực tế phương án vay, phương án trả nợ, mục đích sử dụng vốn vay không đúng quy định đối với 10 khoản vay của 8 đơn vị thuộc Tập đoàn Thiên Thanh tổng cộng hơn 2.730 tỷ đồng. Sau khi giải ngân, Quyết điều chuyển các khoản tiền trên theo chỉ đạo của Phạm Công Danh để Danh sử dụng trái mục đích vay vốn, nay không có khả năng thu hồi, gây thiệt hại cho VNCB 905 tỷ đồng.

Tổng cộng ở hai hành vi, bị cáo Hoàng Đình Quyết phải có trách nhiệm với khoản tiền gần 7.000 tỷ đồng.

Tại phiên luận tội, Viện kiểm sát đề nghị tuyên bị cáo Quyết 11-12 năm tội cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng; cho vay trái quy định tổ chức tín dụng 9-10 năm tù, tổng cộng 20-22 năm tù.

Liên quan đến hành vi cáo buộc cho vay sai quy định, trong các phiên thẩm vấn và tranh tụng, bị cáo Hoàng Đình Quyết vẫn khẳng định các hồ sơ vay của khách hàng gửi đến đều hợp pháp, có hồ sơ pháp lý, có phương án sử dụng vốn, có phương án trả nợ, có tài sản đảm bảo, vốn đối ứng 30% đã được thực hiện… và bị cáo chỉ đạo các nhân viên làm đúng theo trình tự. Còn những vấn đề khác Quyết chỉ làm theo chỉ đạo của Phạm Công Danh.

Liên quan hành vi cố ý làm trái khoản tiền 5.190 tỷ đồng, trong quá trình khai báo và xét hỏi, Hoàng Đình Quyết một mực khẳng định có sự đồng thuận giữa Phạm Công Danh và bà Trần Ngọc Bích nên khoản tiền 5.190 tỷ đồng mới có thể chuyển khỏi tài khoản bà Bích.

Nhưng bị cáo cũng cho rằng, khoản tiền này không chạy ra khỏi ngân hàng mà chạy từ tài khoản bà Bích sang ông Thanh là cha của bà Bích, hay nói cách khác, tiền của bà Bích đã chạy từ túi trái sang túi phải, nhóm bà Bích không mất tiền và bị cáo cũng không nhận mình sai như luận tội. Có chăng, theo bị cáo Quyết, là bị cáo chỉ bị sai vì cho nhóm bà Bích nợ chữ ký, chứng từ, đồng thời nói nếu được tố cáo tại tòa thì bị cáo tố cáo bà Bích vì đã “lợi dụng lòng tốt” của bị cáo.

Về phía ngân hàng VNCB, ngân hàng cũng cho rằng bà Bích có đồng thuận với ông Danh và khoản tiền 5.190 tỷ đồng bị chuyển khỏi tài khoản là trách nhiệm của cá nhân Phạm Công Danh chứ không liên quan ngân hàng. Viện kiểm sát trong ý kiến cuối cùng về khoản tiền này thì đề nghị Hội đồng xét xử cho xử lý bằng cách “tiền ở đâu trả về chỗ đó” tức thu hồi 5.190 tỷ đồng mà Phạm Công Danh đã chuyển cho ông Trần Quý Thanh, và nếu thực hiện như vậy thì đề nghị xem xét giảm án cho các bị cáo.

Khi được nói lời nói sau cùng sáng ngày 30/8 trước khi tòa nghỉ nghị án, bị cáo Quyết nói rằng gia đình bị cáo là gia đình giàu truyền thống, bị cáo chưa từng mong muốn gây ra những sai phạm như ngày hôm nay. Khi vào ngân hàng, dù tình hình khó khăn ngoài sức tưởng tượng nhưng bị cáo vẫn mong muốn đem hết sức mình để cống hiến cho ngân hàng, giúp ngân hàng vượt qua khó khăn. Bị cáo mong mỏi Hội đồng xét xử tạo điều kiện cho bị cáo và các bị cáo khác cơ hội được quay trở lại với xã hội để đóng góp sức mình.

Tùng Lâm

Theo Trí thức trẻ

Đọc tiếp »